Nhớ Quê
Tặng quê tôi Kim Na – Hà Ngọc – Hà Trung – Thanh Hóa
Mấy chục năm rồi nhớ chốn quê
Nhớ cơn gió hút mình qua kẽ liếp
Bầy ve dóng dả ngân nga
Chiều da diết cánh cò sang bờ sông Mã
Mênh mang giọng hò mờ xa
Thuyền ngược dòng về phương trời lạ
Nâu sồng, cơm vắt, tương cà
Câu dân ca một thời phiêu dạt...
Gánh cực dồn bước trèo non
Sông mây quang đứt tủi hờn nén thương
Thân cò sớm nắng chiều sương
Hoang hoang làn bụi trường sình lầy
Nỗi niềm chi ánh trăng đầy
Đau lòng trăng khuyết trăng hay bóng người
Quê nghèo xưa đâu xa rồi
Trong tôi vẫn nhớ một thời tuổi thơ
Bờ cỏ dại khóm lau thưa
Con cuốc nhỏ ngu ngơ vừa tập đi
Mãi tìm bắt chú chim ri
Hoa cải rụng theo về đầy sân
Đường làng vội xóa dấu chân
Mẹ cha gặp con khát lần lại quên...
Bao năm rồi từ lớn lên
Con còn nhớ lời ru đêm mẹ hiền
Cháy lòng con bấy nỗi niềm
Chốn xưa trở lại thắm thêm nghĩa tình.
04-01-2003
Hà Ngọc quê hương
Thuyền trôi xuôi bến đò Châu Tử
Qua Hà Sơn về đến đến Cây Thị
Hà Ngọc quê tôi, Đò Lèn cập bến
Mùa này bờ sông sung vừa rụng tím
Trái dừa ngâm sữa trắng sương đêm...
Từng đàn cá bơi dập dờn sóng nước
Gió vờn quanh bóng gốc si già
Sông Lèn trắng trăng trôi ánh bạc
Ngồi lên những doi cát xa...
Tôi nhớ chiều buông sương khói phủ mái nhà
Chiêm mùa thơm chát đường rơm rạ
Những ổ gà con tiếng tròn líc tắc
Vú dừa nghiêng soi bóng đất quê ta...
Bất chợt gặp em bến sông ngày ấy
Phù sa trắng vườn ngô ven bãi
Trải mờ xa hoa cải vàng mơ
Chiều êm tiếng sáo diều ru gió
Cát lấp lánh ánh trăng vàng chờ đợi
Ấm trời cao ngôi nhà mới dựng xây
Cát cười vui mái trường lớp học
Cát ngời xanh lấp loá hàng cây...
Từ bao giờ...
Cát lam lũ một đời khó nhọc
Sông xuôi dồn đưa cát dần trôi
Cát đâu rồi đáy sông lặng sóng
Tuổi thơ ngụp dòng vốc lên từng nắm
Ngửa lòng tay những con hến lặng câm
Trắng sữa cát bát canh thơm mát
Thơm lựng vàng mẹ muối vại dưa
Hương cua đồng bập bùng ánh lửa
Xanh bí bầu đeo gió ngô sân nhà
Bể nước mưa trưa hè nghe nước đổ
Hàng chuối non hé nõn loa kèn.
Nhớ ngày nào hun hút gió heo may
Con sáo bỏ lưng trâu đâu cành đa ríu rít
Mùa chim muôn phương về xây tổ ấm
Chen bầy đôi đậu lưng vách Núi Ông
Gà rừng tác Núi Bà chiều vắng
Lang thang Núi Con ngơ ngác giữa đồng
Cánh rừng thông rì rào gió hát
Bài ca buồn này áo mùa đông...
Bảng làng đâu đây thơm thoảng khói trầm
Chùa Trần (1) trang nghiêm mơ hồ cổ tích
Huyền thoại ghi lá ngọc cành vàng
Người xưa đặt tên làng quê từ đó (2)
Những pho tượng nghìn năm bằng đá
Như chứng nhân lịch sử còn đây
Thời gian phôi pha nét chữ hao gầy
Đất linh thiêng ghi đầy trang văn hiến
Bên bờ nam gió ru mềm ngọn cỏ
Đền Bà Triệu uy nghi xanh đá xanh trời (3)
Từng vuông đất in bóng người đã khuất
Mấy nghìn năm còn mãi đến bây giờ
Dặm vì lau ngời rạng bóng cờ
Đền Thánh Lý trấn yên bờ cõi bắc (4)
Thành nhà Hồ ưu tư trầm mặc (5)
Cỏ rêu mọc còn nhớ cố hương
Những nét dao cong vút trời dáng núi
Muôn lớp đã xô dậy sóng biển Đông
Đàn cò trắng qua sông tụ lại cánh đồng
À ơi... lời đưa nôi cánh võng...
Đất nước linh thiêng, đất nước tiên rồng
Lúa vẫn xanh cánh đồng mùa bão lụt
Sông Mã đỏ sóng gào như thác đổ
Con đê dài ôm xóm nhỏ ven sông.
Một đời phiêu du vất vả long đong
Đêm hàng mơ hờn về đất mẹ
Như sổ huyết dâng dòng máu ứa
Sông Mã rạng ngời tình nghĩa quê hương!
01-08-2002
(1) Chùa Trần: Thờ Trần Hưng Đạo, ở làng Kim Liên
(2) Các làng ở xã Hà Ngọc đều có chữ Kim (vàng) ở đầu tên
Hà Ngọc: con sông Ngọc
(3) Đền bà Triệu thuộc bờ nam cầu Đò Lèn thờ Triệu Trinh Nương
(4) Thờ Thánh Lí Thường Kiệt, tức Ngô Tuấn, hậu duệ Ngô Quyền Vương, ở làng Kim Quan, xã Hà Ngọc
(5) Làng Kim Chi xã Hà Ngọc có con đường lát đá từ đời Hồ
Lời ru
Tặng Hà Ngọc – Hà Trung – Thanh Hóa quê tôi
Làng tôi qua cuộc chiến tranh
Đặc dày hố bom, đạn cày xé đất
Ngói gạch tan hoang một thời tàn khốc
Ruộng đồng cỏ dại mọc dày
Cây lúa nhỏ gầy chông chênh mùa giông bão...
Những chàng trai, cô gái không chờ thêm tuổi
Vào bộ đội, thanh niên xung phong vui như trẩy hội
Sức trẻ dâng tràn những cánh tay
Xa bạn, xa thầy, tạm biệt quê hương lên đường chiến đấu
Đông Hà, Cồn Tiên, Dốc Miếu
Khói lửa Trị Thiên, còn sốt Trường Sơn
Làng quê bật tin không biết ai còn, ai mất?
Tấm ảnh, lá thư... góc bàn thờ mẹ cất...
Cầu Đò Lèn
Sông lấp lánh ngàn mảnh gương trắng bạc
Sóng rập rờn như một dải lụa xanh
Chiếc cầu quê tôi oằn mình qua bom đạn
Mang trên mình chi chít vết thương
Đây! Một chiến trường không tên
Hiện thân của những gì còn mất
Những mái đầu xanh bạc
Những ánh mắt thâu đêm
Chiếc cầu rung lên sừng sững nối đôi bờ
Sông cứ chảy ánh lửa hàn vẫn sáng
Rực trời vui thêm những vì sao
Sông lấp lánh ngàn mảnh gương trắng bạc
Sóng rập rờn như một dải lụa xanh.
1976
Nhà thơ Dương Tam Kha là một người con của vùng quê Hà Ngọc – Hà Trung – Thanh Hóa. Trong thơ ông, quê hương không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn, mà còn là nơi chất chứa bao ký ức, nỗi nhớ và tình yêu sâu nặng. Qua các bài thơ như “Nhớ Quê”, “Hà Ngọc quê hương”, “Lời ru” và “Cầu Đò Lèn”, người đọc cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết, thủy chung và đầy tự hào.
Trong bài thơ “Nhớ Quê”, nhà thơ gợi mở nỗi nhớ quê bằng hình ảnh gió lùa qua kẽ liếp, bầy ve ngân nga và cánh cò chiều muộn. Những chi tiết tưởng như rất bình thường ấy lại gợi lên một miền ký ức tuổi thơ mộc mạc, da diết. Câu thơ “Con còn nhớ lời ru đêm mẹ hiền / Cháy lòng con bấy nỗi niềm” thể hiện rõ tình cảm sâu nặng với quê hương, nơi cất giữ cả hồn vía của một đời người. Với Dương Tam Kha, nhớ quê không chỉ là nhớ cảnh vật, mà còn là nhớ tiếng ru, nhớ bữa cơm nghèo, nhớ dáng cha dáng mẹ ngày xưa. Nỗi nhớ ấy là khởi nguồn cho một tình yêu không thể gọi tên, không thể phai nhòa.
Bài thơ “Hà Ngọc quê hương” mở ra một bức tranh quê trù phú, yên bình, với phù sa, vườn ngô, hoa cải, tiếng sáo diều, bếp lửa, con sông Lèn trắng trăng. Không chỉ đơn thuần mô tả cảnh sắc, bài thơ còn đưa người đọc về với lịch sử hào hùng qua những địa danh thiêng liêng như Chùa Trần, Đền Bà Triệu, Thành nhà Hồ... Tình yêu quê hương trong bài thơ này không chỉ là tình cảm cá nhân mà còn là niềm tự hào dân tộc. Nhà thơ không ngần ngại bày tỏ lòng thành kính với những thế hệ cha ông, những người đã dựng xây nên vùng đất này bằng máu, mồ hôi và ý chí kiên cường.
Trong bài thơ “Lời ru”, Dương Tam Kha tái hiện hình ảnh quê hương trong chiến tranh khốc liệt với “hố bom”, “đạn cày xé đất”, “ngói gạch tan hoang”. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những chàng trai cô gái quê hương vẫn “không chờ thêm tuổi”, “vào bộ đội, thanh niên xung phong vui như trẩy hội”. Tình yêu quê hương ở đây được thể hiện bằng tinh thần chiến đấu, hy sinh, dấn thân vì Tổ quốc. Hình ảnh mẹ già với “tấm ảnh, lá thư... góc bàn thờ mẹ cất” là biểu tượng cho nỗi đau của hậu phương, nhưng cũng là hình ảnh đẹp về sự thủy chung, son sắt của những người mẹ Việt Nam.
“Cầu Đò Lèn” là một bài thơ giàu tính biểu tượng. Cây cầu quê hương – nơi “oằn mình qua bom đạn”, “chi chít vết thương” – được ví như một chiến sĩ vô danh. Dưới ánh sáng của “ánh lửa hàn”, cây cầu vẫn “rung lên sừng sững nối đôi bờ”. Đó không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn là linh hồn, là chứng nhân lịch sử của vùng đất anh hùng. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về quê hương bất khuất, vững chãi và giàu sức sống.
Về mặt nghệ thuật, thơ Dương Tam Kha mộc mạc, gần gũi, giàu chất dân gian. Ông sử dụng nhiều hình ảnh quen thuộc như con sáo, bờ tre, cánh cò, hàng chuối non, tiếng sáo diều... để khơi gợi tình cảm thân thuộc, gắn bó. Đặc biệt, sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình và chất sử thi trong thơ ông đã làm nổi bật một tình yêu quê hương sâu đậm, vừa cụ thể vừa có chiều sâu văn hóa, lịch sử.
Thơ Dương Tam Kha là bản hòa ca chan chứa tình yêu quê hương. Dù viết về nỗi nhớ, về chiến tranh hay những di tích lịch sử, ông luôn đặt quê hương vào trung tâm của trái tim và hồn thơ. Những vần thơ của ông không chỉ để nhớ về, mà còn để giữ gìn, nâng niu và truyền lại cho thế hệ mai sau tình yêu bền bỉ với đất mẹ thân yêu.
Để lại một bình luận