120.000đ
Kỷ niệm
Một chiều hẹn gặp em lối ngõ
Triền sông Cầu gió lộng mênh mang
Em hững hờ ngực khuy quên bỏ ngỏ
Anh ngỡ ngàng bối rối lạc trong mơ
Từ ngày hôm nào những gì không nhớ nữa
Lời yêu đầu mở lối anh sang
Ừ lối gặp! Chẳng thể quên lối gặp
Con tim ơi chớ đập rộn ràng!
Mùa trăng non tuổi em mười bảy
Nụ hôn đầu còn nhớ không em?
Hương hoa sữa thơm đường em đi học
Anh quên mình đến lớp giảng bài!
Tiếng cười hồn nhiên em gọi “Anh thầy”,
Căn phòng riêng và vầng trăng làm chứng
Bao năm rồi tình như giấc mộng,
Trời hỡi làm sao thấu được nỗi này!
Tuổi học trò và tình yêu thơ ngây
Mùa thi đến để phượng hồng sắc đỏ
Làn môi em đoá hoa tình thắm nở
Kỷ niệm tình đầu tha thiết nơi đây!
10/5/2011
Dâng tặng
Làm sao em thấu hiểu tình anh
Những bài thơ nỗi niềm chắp cánh
Bầu trời thu vẫn ngời biếc màu xanh
Mây vần vũ che mờ mộng điệp
Thời gian ơi... đừng vội trôi nhanh
Em có nghe tiếng bầy chim rộn rã
Hương hoa thơm ngát vườn cỏ lạ
Sợi tơ lòng vương vấn người qua
Nhịp em đi thương dịu gót đồng trinh
Anh ngẩn ngơ hồn theo ngọn gió
Bóng tối u mê sao khuya ngời sáng
Bao kẻ si tình cuồng nộ hờn ghen
Ta dìu nhau thảm biếc dịu êm
Chan chứa cả hồn yêu dâng tặng
Tiếng suối reo vang đêm dài thanh vắng
Tha thiết tình đầu hai tiếng yêu em.
14/5/2011
Sen mộng
Chưa một lần thuyền anh dạo giữa đầm sen
Cuống sen già chưa làm tay mềm đau rát
Hè đổ lửa nhuốm tóc vàng khét nắng
Lá sen đưa hương mộng điệp thần tiên.
Thuyền lặng trôi đêm nhớ trăng nghiêng
Đuốc đèn hoa chập chờn thổn thức
Bến hẹn hồn mê bao lần tỉnh giấc
Sương đầm đìa cỏ mát dịu êm.
10/5/2011
Nhớ
Cây lá vườn em mầm lộc ươm xanh
Cơn mưa hạ nắng ngời đón đợi
Khắc giờ biệt ly héo mòn sầu tủi
Mắt lá dâng đầy nỗi nhớ tình anh.
13/5/2011
Sông Hương
Anh thả xuống dòng thơm khối tình băng tuyết
Sóng hát ru bao khúc nhạc êm
Cả rừng hoa thu bồi hồi ngọn gió
Nơi thượng nguồn hương ngát toả triều lên.
07/5/2011
Gửi... (I)
Có khi nào làn môi em trào dâng
Bao ánh mắt thiết tha trìu mến
Ngàn ánh bạc trăng dát đường làng
Nghe xao động nhịp chèo khua về bến.
Có khi nào em thổn thức trong lòng
Nơi thượng nguồn sông Hồng dào dạt sóng
Xa tận chân trời hoàng hôn biển hát
Rặng phi lao cồn cát mênh mông.
Gió đêm này ào ạt gieo cơn
Buồm mải miết đèn lên ráng đỏ
Niềm vui ánh nắng pha lê ngời tỏ
Da diết niềm thương xao xuyến chiều buông.
12/5/2011
Mong chờ
Bao giờ em đến chốn này
Tay vun áo gió đong đầy nhớ nhung
Trời cao trăng rót lòng thung
Bước chân xao động lá rung sương đầm
Rừng xanh rộn tiếng chim ngân
Nhịp tim hay nhịp thời gian mong chờ.
22/5/2011
Mùa xuân
Những nụ hoa hẹn hò khoe hương đua sắc
Tóc mây, ngực nõn, làn môi, ánh mắt
Tuổi yêu em dạo vườn xuân mộng
Trang thơ anh say men tình ngây ngất.
22/5/2011
Mộng tàn
Đường biếc mùa trăng bóng núi gần
Thềm đá bâng khuâng dạo bước chân
Xóm làng hương sắc xanh triền cỏ
Sương gieo gió lạc tiết ngày xuân
Ta nhớ về em thuở tình xa
Từng nẻo thân thương chốn quê nhà
Nét cười e lệ duyên thầm nói
Nào ngờ li biệt nỡ phôi pha
Cô lẻ bao ngày em biết không
Bẽ bàng duyên muộn hận ngàn năm
Từng mùa trăng nhớ mùa trăng cũ
Người vội quên ta mộng tàn xuân.
30/3/2011
Đêm xuân
Ngày ấy đôi ta tuổi xuân thì
Bờ sông vai sánh kề bên nhau
Em làm hoàng hậu anh thi sĩ
Thơ tình anh viết chẳng cạn dòng
Tiếng chim vườn biếc vọng tầng không
Ru hồn sóng nhẹ gợn hồ xanh
Làn suối tóc mây hoa bướm đậu
Tình anh nụ thắm dâng gió lành
Đêm ấy trăng thanh lời yêu anh
Dáng hình nhung lụa gợi bao tình
Mùi hương ân ái lên huyền ảo
Ngọc ngà ngời hiện mộng tuyết trinh.
27/5/2011
Chợ nổi
Làn điệu Quan họ Bắc Ninth
Còn duyên kẻ bán người mua
Em về chợ nổi muộn chưa anh chờ?
Hàng cau, hàng cá, hàng dừa
Đầy thuyền hoa trái, đó lờ, giỏ nơm
Đói lòng củ ấu thay cơm
Bẹo hàng muộn chợ còn hơn muộn chồng.
29/5/2011
*Bẹo hàng: Lối tiếp thị treo hàng đầu thuyền mời khách
Tình em
Lời em xe chỉ luồn kim
Thiếu phụ mùa đông đợi chồng
Sương khuya ướt đầm vạt áo
Trăng mờ gối chiếc phòng không
Biên cương sông Hồng xa xăm
Thương em một mình thổn thức
Hương em lửa tình rạo rực
Mộng ngày xum họp tình xuân.
30/5/2011
Nguyện cầu
Ta cầu xin em lời con chiên ngoan đạo
Ban cho anh mộng ước một tình yêu
Đôi tay thần tiên, ánh mắt dịu hiền
Em gieo phước cho hồn anh nhận được
Ta khát khao đôi bờ ngát cỏ hoa
Từng bước dạo làn dư hương phảng phất
Mỗi chiều tà, những lúc trăng xa
Đêm gối ủ tình em dào dạt
Ôi bùa mê quyến linh hồn phiêu bạt
Chẳng có khi nào anh nguôi nhớ hình em
Hương hoa mộng niềm yêu thương ngời rạng
Thầm gọi tên em tha thiết từng đêm.
31/5/2011
Mộng ước
Ước mộng tình mình mãi được kề bên
Bờ cỏ mềm, hàng thông xanh, liễu rủ
Kinh thành đèn hoa lối vườn ngự uyển
Anh làm hoàng tử, em nàng tiên...
31/5/2011
Một chuyện tình
“Em sẽ đón anh chuyến tàu cuối sân ga”
Lời hò hẹn đinh ninh chàng trai nhớ rõ
Từng phút âu lo khắc khoải đợi chờ
Chàng trai sợ nhận nhầm cô gái khác
Có hai người yêu nhau chưa từng gặp mặt
Lần đầu gặp nhau đêm tối đầy bão giông
Người con gái choàng khăn để lộ đôi con mắt
Chiếc ô che vừa kín bờ vai
Tìm đến bên nàng bóng một chàng trai
Chừng vội vã quên mưa đầm mái tóc
Những tiếng thì thầm khoác vai sánh bước
Họ dìu nhau đi trong nắng ban mai.
01/6/2011
Tình yêu
Khát vọng ngàn năm là rừng, là đá
Là cánh chim bằng, biển cả, đồi hoa
Giấc mộng đi về thương người phương lạ
Trao nụ hương tình trinh nữ quyến hồn ta.
11/6/2011
Tình đơn phương
Anh đã yêu tình yêu đơn phương
Cơn mộng mị nghiệp đời thi sĩ
Bao hờn ghen, đam mê, thất vọng
Người ở trời xa người thấu hay chăng?
Mùa nụ xanh, mùa hoa nở, mùa đi
Như mật đắng làn môi em dịu ngọt
Tình yêu anh đất trời dào dạt
Giấu vùi cả gió trăng ghềnh thác
Nàng hãy yêu ta vì cả cuộc đời
Khi mùa xuân cất lời yêu gọi
Khúc tình ca mênh mang vời vợi
Nắng đã ngời lên ngọn Phanxipan.
Sa Pa, 02/6/2011
Mùa tím
Anh tìm về mùa tím sông Hương
Nhớ cánh hoa sen đồi sim ngời sáng
Thương Huế buồn đường khuya lẻ bóng
Mộng thơ Hàn trăng Vĩ Dạ rưng rưng
08/6/2011
Tiếng chim
Xóm nhỏ, rừng hoang trải dọc triền sông
Nửa vầng trăng úa
Tre làng rủ bóng
Không gian lặng chìm
Tiếng chim sáng nay ngừng hót
Cánh đồng mùa gặt đã tàn
Nường đồi cằn khô, xơ xác
Đâu hắt hiu làn khói ấm
Đêm qua chú chim trong lồng vừa chết
Chiếc mỏ khô lộn ngược
Lũ trẻ nẫu buồn, câm lặng
Chôn xác chú chim như một đám tang
Chôn cả lời ru non nước
Ngủ ngoan nghe chim
Từ hư không....
Lời chim vang vọng
03/6/2011
Cánh đồng tháng ba
Cánh đồng tháng ba
Mùa gieo trồng nắng hạ
Dòng sông Hồng
Dòng Mê Kông
Thác Bản Giốc
Thác Tây Nguyên
Đất cằn khô hạn
Muôn loài thuỷ sinh cạn kiệt
Những con rái cá rủ buồn
Ngước ngược dải Ngân Hà
Hỏi: Nước....?!...
01/6/2011
Viếng mộ
Thương tặng...
Sao đành ly biệt trinh nữ ơi
Mồ em hoa trắng rụng tơi bời
Đìu hiu gió lạnh sương thu ấp
Cuối trời trăng khuyết chiếc thân côi
28/5/2011
Ngắm tranh
Ngọc sáng gương trong dậy sóng tâm hồn
Ruộng đồng dòng sông làng quê bình dị
Niềm yêu thương xót xa trần thế
Giọt lệ đêm trường nặng tình nước non.
28/7/2010
Thương em
Phận em cánh mỏng lá bèo
Sóng bừng cuộn đổ gió theo đêm hè
Lưng đèo, quán dốc, bờ tre
Bóng đâu em cũng nghiêng về bên anh
Khi mưa nắng, lúc tàn canh
Phố đông côi cút thương anh một mình
Tình ơi! Ai thấu chăng tình
Mênh mông biển cả, lênh đênh kiếp người.
06/6/2011
Thương nhớ
Em mỏi mòn, đợi chờ, đơn côi
Anh ở phương xa cách ngăn sông núi
Sao Hôm, sao Mai hai miền vời vợi
Chung một khoảng trời thương nhớ đầy vơi.
08/6/2011
Hoa dã quỳ
Em lộng lẫy bên sắc vàng rừng hoa
Trời Đà Lạt chói chang vàng rực rỡ
Hoàng hôn mênh mang lẻ bạn
Thầm thì lời hoa dã quỳ
Trinh nguyên e ấp nụ tình
Ban mai mỏi mòn sương trắng
Mong manh hương gió hương trăng
Tình em dã quỳ ngỏ lời ngọt đắng.
11/6/2011
Hoạ hoa sen
Từng giọt long lanh, sương đầm nón lá
Nhụy hương vàng cánh trắng hồng tươi
Người thơ dạo gót sen bến lạ
Gương mặt nàng thôn nữ ấp kề hoa
13/6/2011
Ếch và Sên
Hoàng tử Ếch
Giương đôi mắt tròn
Nhìn tầng búp non
- Được!!!...Được...!!!
Bầy ốc sên
Bằng mồm leo ngược
Chễm chệ thiên đường
- Yến tiệc..!!!...
Ếch không có râu
Ếch chết tại miệng
Sên không có chân
Tài trèo cao, ăn sung, mặc sướng!
10/6/2011
Yêu em
Ta si mê nàng từ tiếng hát véo von
Lời ngọc ngà ru môi son hé nụ
Ta khát thèm ánh mắt trong tựa ngọc
Làn da trắng hồng tựa cánh hoa sen
Nàng ngự tim ta mỗi độ trăng lên
Con sóng thuỷ triều ban mai én liệng
Mỗi chiều tà hoàng hôn rạng rỡ
Biển thì thầm hai tiếng yêu em
Vì quá yêu ta hát lời giã biệt
Để ngàn năm còn mãi khúc tình ca
Sông Ngân Hà muôn đời ngưỡng vọng
Những nồng nàn tha thiết tháng ba.
20/6/2011
Khát vọng (I)
Rồi thời gian sẽ xoá nhoà dĩ vãng
Tình yêu như sông cạn nắng đầy
Cả vầng mây huy hoàng lộng lẫy
Sẽ chẳng còn mãi mãi riêng em
Nếu một ngày kia thời gian trở lại
Những nụ hoa nở kín mặt hồ
Những cánh tay ngà búp thon thơm nhỏ
Nghẹn ngào dâng chan chứa tình anh
Biển cát mịn màng mỗi buổi ban mai
In hình bóng đôi bờ vai sánh bước
Ánh mắt nàng làm sao tôi quên được
Nụ môi hồng thơm mãi một đài sen
Đường phố, non đồi, biển cả và em
Vẫn thì thầm lời yêu lên tiếng gọi
Hãy hé nụ tình yêu ta mong đợi
Những nồng nàn khát vọng thần tiên.
18/6/2011
Chiều
Ánh nắng chiều hôm dần mờ tắt
Vầng mây u ám vội thay màu
Dòng sông nhạt nhoà làn sóng nước
Lòng nghe rờn rợn nỗi thương đau
Năm tháng sang mùa hoa rụng rơi
Chiếc lá run cành gió chơi vơi
Cửa sổ bầy chim không về đậu
Một mùa xuân nữa hững hờ trôi
Em đã quên tôi, ly biệt tôi
Ai biết nào duyên số tại trời
Thơ ơi xin gửi dòng dư lệ
Cho kẻ xưa sau mãi hận lời./.
19/3/2011
Tình đầu
Ngày yêu em phượng hồng chớm nở
Mây hững hờ cành lá nhẹ đưa
Tà áo trắng làn môi hé nụ
Anh đắm nhìn ánh mắt mộng mơ
Đêm ấy bên hồ trăng sáng đường thơ
Thơm mùi hương tóc gió ngẩn ngơ
Con tim anh sắp chừng rạn vỡ
Lối cỏ hoa mềm bước chân êm
Hẹn ước hôm nào đâu dễ nguôi quên
Mùa hạ cháy lên màu nhung nhớ
Cảnh cũ người xưa bẽ bàng kỷ niệm
Xa xót tình đầu hai tiếng yêu em./.
23/3/2011
Gọi em lần cuối
Thôi em về đi
Em cứ đi...
Đường trăng hoa rụng nẻo từ ly
Ô kìa, trăng lạnh như băng tuyết
Mỗi bước xa dần bóng sầu bi
Từ ấy ta về hận tình đau
Lối nhỏ đường quen chẳng còn nhau
Lời hẹn duyên xưa... nào ước hẹn!
Mối sầu nhân thế có ngờ đâu?!
Ai nỡ chia phai sắc màu xuân
Kết vòng hoa trắng trắng màu tang
Thôi nhớ mà chi đôi mắt biếc
Cả tiếng cười em cả đường làng
Bia mộ ái tình lạnh khói nhang
Anh tìm gom nhặt chiếc lá vàng
Thầm gọi tên em một lần cuối
Ngậm ngùi chua xót cuộc tình tan./.
20/3/2011
Chùm thơ Phong Nha Kẻ Bàng
I/Sông Son
Mặt sông vỡ ruộng cày cha dang dở
Thuyền lặng đau đỏ nước dòng Son
Khe cửa núi sương mờ khép mỏng
Cánh chim trời phiêu dạt hư không./.
19/4/2011
II/Chiều
Chiều nhuộm nắng cành phan cõi Phật
Dòng sông Son sóng cuộn mênh mang
Nghiêng dáng nhỏ thôn nữ mùa gieo hạt
Cánh đồng vàng tan chảy hoàng hôn./.
19/4/2011
III/Thăm Động
Những giọt nước nguồn thăm thẳm rừng sâu
Những giọt nước nguồn nóc trần hang lạnh
Vạn niên kỷ qua, vạn niên kỷ sau
Làm nên kỳ quan thế giới.
Dòng Son thiêng liêng một lần anh tới
Cát lặng, gió reo, sóng hát
Huyền thoại Phật Bà tụng niệm
Cột đá nhà trời tạo dựng
Từng giọt hồn hoang rưng rưng./.
23/4/2011
IV/Sông Ngân
Có những dòng sông
Ai lỡ buông rơi mái chèo
Không người giặt áo chân cầu
Không nỉ non tiếng sáo.
Có những dòng sông
Đớn đau suốt một đời
Sóng lòng từng cơn cuộn đổ
Một nửa em neo giữ riêng mình
Bến bờ anh dãi dầu mưa nắng
Dòng sông em
Bốn mùa trăng sao dát bạc
Hạt phù sa đơm hoa kết trái
Em tô màu huyền thoại
Gọi tên dòng sông yêu thương.
Anh dõi tìm em hình bóng nẻo đường
Nơi bến vắng thuyền ai neo đậu
Chợt giật mình bao đêm tỉnh mộng
Em hiện về vời vợi dải sông Ngân../.
24/4/2011
V/Tình anh
Tình mơ ngỡ ngàng mắt nai
Triền sông sương mờ đủng đỉnh
Nắng tràn bóng in dòng biếc
Xạc xào thu lá vàng bay.
Nhung nhớ sang mùa vườn xanh
Chênh vênh một mình đưa võng
Hạ chiều lặng ngồi đón gió
Hàng ghế công viên nổi nênh.
Buông hờ tóc mượt trăng thanh
Thầm thì tiếc mòn tuổi ngọc
Non đồi rạng ngời ánh bạc
Đêm này tha thiết tình anh../.
25/4/2011
Biển gọi
Thân tặng thi sĩ Kim Liên - Tây Ninh
Em dịu dàng ban mai sóng biển
Cánh Hải Âu chớp nắng triền non
Một thoáng bâng khuâng hồn anh chan chứa
Đón sắc màu tan chảy hoàng hôn.
Thầm thì biển xa tim nghe xao động
Cánh buồm nâu hay bóng hình em
Ơi sóng ơi... trùng trùng sóng vỗ
Sao vội xô dồn cuộn chảy ngày đêm?
Tà áo em bay mây tóc vờn nghiêng
Đôi gót nhỏ mờ dần dấu cát
Nắng hồng môi em nét gò bồng đảo
Nắng ngân thành điệu nhạc thần tiên.
Vầng mây qua đây nắng nhẹ dịu êm
Từng cánh sóng hồn anh rộng mở
Biển yêu ơi... ban mai rạng rỡ
Hương nhụy sen vàng... Biển gọi tên em./.
19/02/2011
Thương em
Thương em mưa nắng bao ngày
Toan lo vất vả đắng cay nhọc nhằn
Đất cỗi cằn, cỏ vàng trăng
Cây hoa đơm lộc đằm đằm khát khao
Thương em chín cả chiêm bao
Duyên trời bất chợt được vào thăm em
Thương vườn lan, thương ngọn đèn
Sớm khuya trở gió ai bên vỗ về
Trang thơ em vẫn hằng nghe
Thương em thương cả miền quê sông Vàm./.
20/02/2011
Cầm bằng
Làn điệu Ca trù
Yêu nhau chẳng được gần nhau
Cầm bằng mộng mị khổ đau một đời
Yêu nhau khuất bóng im lời
Cầm bằng hoá đá làm người vọng phu
Yêu nhau phiêu bạt xa mù
Cầm bằng sóng dại vỗ bờ đảo hoang
Yêu nhau lỡ một cung đàn
Cầm bằng ước muốn gào ngàn thông reo./.
21/02/2011
Đồng dao
Thân tặng Ngô Văn Phú, Nguyễn Phan Hách, Nguyễn Nguyên Bảy, Lý Phương Liên
Thủng tha... thủng thẳng...
Hâm hâm... Hâm hâm...
Không thầy, chẳng lớp
Tri ngộ tương phùng
Mấy bạn văn già
Hàng chục đầu sách
Mấy trăm tác phẩm
-"Mày rách?
- Tao còn nát hơn?"
Thủng tha... thủng thẳng...
Hâm hâm... Hâm hâm..../.
24/4/2011
Nam Ninh
Biển mây, Đình hồ, Dạ thủy quán
Khách du hoan lạc giữa trần gian
Gái Thái, Mông, Dao hầu bàn trẻ
Thi nhân chua xót cảnh hèn sang../.
Quảng Tây - Trung Quốc 02/5/2011
Về thăm Huế
Quá nửa đời người về thăm Huế
Xứ Huế dầm mưa núi trắng mờ
Đếm giọt tàn khuya trăng suông nhạt
Một mình run lạnh lặng đơn côi.
Một kiếp đa mang nợ cầm thi
Tràng Tiền định nhịp khúc phân ly
Kinh thành hoa lệ cười hay khóc?
Đắng cay lầu các phận cung phi.
Xưa đã cùng em dạo thuyền hoa
Cung đàn hòa điệu giọng xênh ca
Mắt tìm mắt biếc in dòng nước
Ái tình duyên phận nỡ chia xa.
Anh mải tìm em chốn xa xôi
Ngự Bình cô lẻ cuộn mây trời
Hình bóng người xưa con thuyền ấy
Dòng Hương nhòa nhạt chiếc thân côi../.
30/4/2011
Thơ cho con
Con hãy ngắm sắc hồng những đóa hoa sen
Cha mua tặng con ngày thi vào đại học
Con hãy ngắm ngôi nhà con đang ở
Mừng gia đình con tổ ấm vững bền
Sự bắt đầu từ ngọn lửa tâm hồn
Bốn mươi năm làm thơ hằng ấp ủ
Mặc thời gian vàng phai mòn dũa
Vần thơ cha nào còn gì quý hơn
Bông sen, căn nhà tình yêu con đó
Vũ trụ này ánh sáng hồi sinh
Ngày mỗi ngày bình minh rạng rỡ
Ngàn trùng xa sóng vỗ ân tình./.
05/5/2011
Khao khát tháng ba
Khao khát một lần về thăm đồi gió
Cửa son Tháp Chàm đợi khách
Tiên nữ múa điệu Phượng hoàng
Xốn xang sen đồng hương toả
Đất nồng men ủ ngàn năm
Làng gốm khung cửi tầm tang
Đêm trăng dệt thêu tình sử
Giọt sữa, nhũ hoa...
Nước mắt Chế Bồng Nga, Huyền Trân Công chúa
Sông hay trăng mà nguồn thơ dào dạt.
Cuộc tình nào Mộng Cầm, Hàn Mạc Tử đi qua
Dầu đớn đau không giết được người trong mộng
Vầng trăng đêm nhuốm hồng sắc máu
Anh ngẩn ngơ tìm nửa vầng trăng đêm ba mươi
Một nửa vầng trăng kẻ Nam người Bắc
Sương trắng bờ lau ngút ngàn dòng Cái
Tháng ba này rét có lạnh nàng Bân./.
09/4/2011
* Dòng Cái: Hay sông Cái - tức sông Hồng.
Chàng lười
- Làn điệu dân ca H’Mông
“nói thế cho nó vui !”- Nguyễn Phan Hách
Chàng lười
Đêm trăng
Khèn cài lưng khăn
Ê...a... lời ngàn năm cũ rích
Chàng lười
Phát nương trồng lúa
Ném hạt vào vách đá
Lọt hang con don, cái dúi
Chàng lười
Nhặt nấm, hái măng
Chờ gió lớn tre non ngã gục
Nắng lên
Đường trơn lối tạnh
Chàng lười
Bắt cá sông, tôm suối
Cá vờn đẻ giữa hai đùi
Tôm cặp gọi mẹ
Nhờ người cứu giúp
Chàng lười
Thèm uống, thèm ăn
Đợi ngày... mong đêm...
Làng mở hội
Xếp bằng mòn cột
Chàng lười
Làm bậc cầu thang
Chọn cành mọt cưa, mối đục
Chờ chực
Vợ bế lên giường nằm ngủ./.
10/4/2011
Lời ru
Nặng lòng hai chữ tình yêu
Con tim trăn trở sớm chiều vì em
Khi nửa ngày, lúc tàn đêm
Phận hoa cánh mỏng càng thêm mỏi mòn
Suối tóc dài, làn môi thơm
Hàng mi thương dịu chập chờn cơn mê
Cõi đời mưa gió não nề
Xanh trong mắt ngọc vỗ về lời ru./.
25/02/2011
Cỏ
Bông hoa mùa xuân anh chưa kịp hái
Dấu cỏ vườn xanh dâng đầy nhung nhớ
Tuổi yêu chan chứa vòng tay
Tháng ngày giêng hai cỏ may vương làn tóc rối./.
25/02/2011
Tình sử
Điều thầm kín trong tâm hồn em, giữa buồng tim anh
Một đời trần thế ước mộng duyên lành
Nơi xa xăm muôn vì sao xanh hẹn lối
Nâng cánh ta bay lạc chốn thiên đường.
Thoang thoảng đâu đây dịu ngọt làn hương
Cuộc truy hoan tận cùng cảm xúc
Làn gió ngất ngây, sóng xô bờ cát
Huyền diệu đất trời muôn lớp trùng dương.
Đây dải Ngân Hà cầu Ô Thước ta qua
Ngàn sao sáng rung trên vòm lá
Người ngọc trần gian thướt tha tiên giới
Gửi trao lời tình sử gọi Hằng Nga./.
26/02/2011
Lời hát từ đồi thảo quả
Làn điệu dân ca Dao
Ơ này... con đường rừng quên ngủ
Ơ này... hàng cây thảo quả hát ru
Anh từ đỉnh núi cao đã tới
Anh như dòng suối mát tràn về
Nương đồi vườn em biếc xanh
Cơn gió thơm hương ngọt lành
Khăn lưng em ấm vòng tay anh
Làn gió mơn man da em ngần trắng
Anh chìm vào bồng bềnh suối tóc
Say hơi ấm nồng nàn vầng ngực miên man
Mùa xuân này bầy chim ríu ran
Tiếng khèn nỉ non sóng váy
Cánh rừng này của đôi ta từ đây
Bản mường cho ta tình yêu gắn bó./.
08/3/2011
Nàng Bân
Thân tặng nhạc sĩ Lý Dũng Liêm, thi sĩ Kim Liên - Tây Ninh
- Tác giả bài hát: Tháng ba của em
Những nàng tiên hát
Đêm trăng huyền thoại
Thuyền hoa trăng neo bến mộng.
Anh mơ làm làn sóng
Mơn man dập dờn ánh biếc.
Những nàng tiên ngồi dệt áo
Bên dòng sông Ngân
Cầu Ô Thước lung linh muôn vì sao đậu.
Anh mơ làm con suối
Thơm ngón tay thơm
Nồng nàn yêu thương dào dạt.
Một ngày em trao tấm áo
Hương tình rạo rực xốn xang
Một đời cuồng vọng khát khao
Yêu em... Yêu em... Tháng ba
những nàng tiên hát./.
28/3/2011
Đêm mộng
Đêm từng đêm
Chập chờn cơn mê
Trăng khuya đẩy cửa
Trăng hay bóng em...?!...
Mắt em cong vành trăng lược
Làn môi thắm đỏ
Chân êm lối cỏ
Tường vi cành mềm hé nụ
Những đoá hoa lê
Hương thơm nhũ non ngần trắng
Muôn vì sao lung linh
Sông Vàm sóng vờn dịu êm.
Đêm mộng thần tiên
Thuyền Trương Chi đậu
Tiếng sáo nỉ non
Trăng thanh bến vắng./.
29/3/2011
Chọn lựa
Giăng Bắc, giăng Nam
Chọn gái Ba Trăng làm vợ
Mía đỏ mía xanh
Lựa anh Kẻ Mía làm chồng./.
22/3/2011
* Kẻ Mía, Ba Trăng - tỉnh Sơn Tây cũ - nay thuộc
Hà Nội: Địa danh nổi tiếng trai tài, gái sắc.
Ru lời diêu bông
Bồng bồng... ru lời diêu bông
Chắp vần bến đợi mà không có đò
Đò xưa năm cũ gối bờ
Ba năm mẹ khấn vong thờ mẹ đi
... Gió đánh cành tre
Gió đẩy cành tre...
Lược ngà mẹ chải...
...buồng the má hồng
Qua mùa đông lạnh sang xuân
Trái thơm mật ngọt ngang tầm tay ai...?!...
30/01/2011
Nhớ sông Hương
Thân tặng thi sĩ Kim Liên - Tây Ninh
Chẳng màng biển dội trời xanh
Xin làm sóng nhẹ dỗ dành bến quê
Làng xưa lối cũ đi về
Cong vành trăng lược triền đê cánh diều
Lặng nghe cỏ hát bao điều
Gối đầu cỏ ấm đắm chiều sông Hương./.
25/12/2010
Huế
Bâng khuâng Huế đẹp, Huế mộng mơ
Thuyền về nắng gió lộng đôi bờ
Sông Hương câu ví xanh triền cỏ
Để gã si tình say ngẩn ngơ./.
25/12/2010
Mùa yêu
Sen vàng toả ngát, chim níu rừng
Biển mây phiêu dạt mấy trùng dương
Mùa yêu không hẹn bùa giăng lối
Xuân tình cỏ ấm sợi tơ vương./.
26/12/2010
Đêm sông Hương
Dầu muộn mằn một vạt nắng chiều
Trăng lên sớm soi hoàng thành năm cũ
Thuyền ai nhẹ lướt êm một cánh diều
Sông Hương đằm mình vào đêm mộng
Vành mi cong cầu Tràng Tiền muôn vì sao đậu
Có vì sao nào rơi trên cỏ dịu êm
Một mình anh cơn gió thoảng đường quen
Em lộng lẫy nét ảnh hình huyền diệu
Trăng vỡ rồi em! Thuyền ơi mau về bến
Ngàn trùng xa sóng vỗ triều lên./.
28/12/2010
Gửi... (II)
Nỗi nhớ thương em dặc dài đầu nguồn sông Chảy
Tiếng sóng sông Hồng ngân dài tiếng sáo Trương Chi
Bờ cát mộng, dấu chân nàng Tiên Dung gặp chàng Đồng Tử
Đôi bờ sông Vàm Cỏ
Trải một màu xanh xanh rất xanh
Muôn ngàn vì sao lung linh dòng Ngân Hà mờ tỏ.
***
Năm tháng chưa qua, lời yêu đầu đã ngỏ
Đêm từng đêm con tim anh trăn trở
Biết đến bao giờ đàn chim từ nơi anh bay về phương Nam
Phan xi păng trắng trời tuyết lạnh.
***
Sẽ chẳng khi nào anh nguôi nhớ màu xanh
Con tim nhỏ mà đất trời rộng quá
Em bên anh đêm Liêu Trai mộng ảo
Đau đớn duyên tình - hạnh phúc có mong manh ?!?!
07/01/2011
Nhớ em
Phương em mùa này nắng độ vàng
Cỏ mềm hương dịu ngát vườn xuân
Có tiếng chim ngân bên dòng vắng
Ngập ngừng sương giọt dấu bàn chân
Lối ngõ nhà em cách tường ngăn
Có con bướm trắng vẫn thường sang
Vầng lá non tơ mây vương nhẹ
Ước lần hẹn gặp ghé vào thăm
Ngày ấy em vừa độ thanh tân
Ngực non má thắm mắt trong ngần
Duyên phận trái ngang xa biền biệt
Thẹn thùng sao hai tiếng yêu em
Ngày ấy bên nhau mộng thật hiền
Triền cỏ còn đây dấu chân quen
Năm đợi mười chờ em không đến
Trằn trọc khuya rồi đêm từng đêm
Chẳng biết khi nào anh gặp lại em
Cho lòng chua xót đớn đau thêm
Người xa xa tiếng xa hình bóng
Có thấu tình anh bấy nỗi niềm./.
09/11/2011
Tình thư
Thân tặng thi sĩ Kim Liên
Một mảnh hồn hoang nửa đời phiêu dạt
Thoáng mơ hồ lối cỏ đìu hiu
Cạn dư ba xót xa nguồn cội
Dòng Nậm Thi buồn mờ xám bờ lau.
Không gian lặng tờ nhang khói phụng thờ
Đền Trần uy nghi vọng lời gió gọi
Mảnh trăng làng ngàn xưa chờ đợi
Hồ sen vàng ai khéo đặt Kim Liên
Bao đêm trường khao khát gặp mơ em
Gót chân tiên em lên Lào Cai ngày đó
Con đường nhỏ mái chèo khua sóng vỗ
Sông Mã quê mình ai nhớ ai quên?
Du khách xa du khách đã xa rồi
Người thơ ơi cô lẻ một anh thôi
Biết thưở nào gặp em nơi bến mộng
Tình thư anh xao xuyến mấy phương trời.
08/12/2010
Tri kỷ
Nhớ chuyện Bạch ông* với Tản Đà
Xuống tàu lênh đênh bốn biển xa
Nếp nhà cỏ rau thơm vị ngọt
Rượu hoà nước mắt đọng hồn ta./.
Mùng 5 Tết Tân Mão
* Bạch ông: Bạch Thái Bưởi - doanh nhân số 1 Việt Nam, hiện có đền thờ tại cảng Bạch Thái Bưởi - Quảng Ninh.
Vô Đề
Nhà ngăn tường đá căn lều nhỏ
Đá, cỏ, người vẫn kiếp phù sinh
Bốn cõi mênh mông đời bể khổ
Lời kinh cầu lạnh cõi u linh./.
11/4/2008
Yêu em
Vẫn lặng thầm đá xanh bờ cát
Vẫn lặng thầm rêu cỏ phong sương
Vẫn lặng thầm sóng dâng ghềnh thác
Những nụ hôn tha thiết dịu êm.
***
Con tim nhớ về nhau hằng biết
Canh cánh bên lòng khắc khoải chờ mong
Muốn được là gió mây biền biệt
Muôn trùng lớp sóng vỗ về em.
***
Nặng tình thương yêu ánh mắt đầu tiên
Con tim anh suốt một đời ngoan đạo
Dầu đớn đau trước cuồng phong dông bão
Chúa lòng thành nương độ đứa con chiên./.
16/01/2011
Thôi đành
Em giờ là của người ta
Vọng nghe lời hát xót xa... não nề...
Bể trần chín khúc ruột đê
Sắc vàng hoa cải biết về nơi đâu?
Một dòng là mấy nông sâu
Con thuyền bé nhỏ ván sầu long đinh
Thôi đành tạ tội mái đình
Nỗi mình lẻ bóng phận mình chênh chao./.
17/01/2011
Bi khúc
Mùa đông...
Bão dông
Đắm thuyền
Bờ trắng khăn tang
Ôi... xác hồn phiêu dạt...
***
Mùa đông...
Nến nhang thắp đỏ nghĩa trang
Mẹ già mỏi mòn
Mồ con xa xăm...
***
Mùa đông...
Đàn trâu gầy ngã gục
Ngẩn ngơ lũ trẻ
...cày đồng... hi vọng...?!?!...
18/01/2011
Đừng gọi tên anh
Hơi ấm
Dâng nỗi niềm bâng khuâng
Ly rượu này... mời khách
Tay ngà nhẹ nâng...
***
Có lẽ nào
Khước từ
Mắt lặng nhìn
Bối rối
Tình này...
Chứa chan...
***
Chợt thoảng đâu đây
Lời hát
Cỏ hương lan chiều
Ngất ngây...
Nắng thông reo
Tường Vi bóng ngày hút gió...
***
Tình ơi
Dở dang, cách trở
Nắng úa sau lưng
Tóc em... hình như xanh đỏ...
***
Ánh nhìn em
Mỏi mòn ngoảnh lại
Đường xa mờ hương
Chiều tàn mờ phai
Từ đây...
Một đời đơn côi...
Đòi đoạn từng ngày...
Linh hồn phiêu dạt...
Chia cắt...
Tàn phai.../.
24/01/2011
Lên Tam Đảo
Thân tặng Nguyễn Khôi, Anh Tuấn
Lên Tam Đảo chẳng có nhà bình dân
Tìm đâu chốn chiếc thân nương tựa
Những vuông hộp xi măng cao tầng
Vô hồn những con chó đá!
Lên Tam Đảo đêm nay ta lang thang
Gặp một nhà văn không vào hội
Hỏi người hay tự hỏi(?!)
Cuối trời sắp lặn vú trăng.
Vú trăng gian díu bóng tối cánh rừng
Thuỷ Tinh nghẹn ngào, uất hận
Xót xa máu xương nghĩa binh chiến trận
Tam Đảo! Người lộng hành Tề Vương...!...
07/5/2011
Tụng kinh thành Thăng Long
Giữa kinh thành Thăng Long
Ba vái con lạy thầy Nguyễn Đình Chiểu
Đêm nay trăng sáng
Thuyền đạo thầy chở có đầy?
Bút thần còn say máu giặc?
Giữa thanh thiên bạch nhật
Ba vái con lạy thầy Nguyễn Văn Siêu
Đôi vầng nhật nguyệt
Rùa vàng linh thiêng độ trì dân nước.
Giữa kinh thành Thăng Long
Ba vái con lạy Đông - Tây - Nam - Bắc
Lạy Côn Sơn, Kiếp Bạc
Lạy Bạch Đằng, Đống Đa
Lạy Phật Ông, Phật Bà
Lạy Đền Đô, Đền Gióng
Lạy Yên Tử, Chi Lăng
Lạy Chùa Hương, Bái Đính
Lạy Núi Tản, Núi Nùng
Lạy Nghi Xuân, Đồng Lộc
Lạy Quảng Trị, Trường Sơn...
Nam mô a di đà phật...
Nam mô a di đà phật...
07/5/2011
Nỗi niềm
Biền biệt mùa đi thu đông xuân hạ
Màn sương giăng khung cửa nhạt nhoà
Căn phòng rộng chiếu giường trống vắng
Nhạc Trịnh khơi nguồn thương nhớ người xa.
Một mình anh hoang hoải vườn nhà
Ngày gió lộng sương chiều quay quắt
Ngọc lan buồn héo sầu chiếc lá
Từng cánh buồn giọt trắng thu già.
Vọng cuối bờ sông tàu gọi sân ga
Xao động phố đêm nhịp đời lên vội
Vuông cửa sổ hai bóng người tình tự
Trao nụ hôn đầu sau bức rèm xanh.
Nỗi niềm cô đơn riêng phận mình anh
Tàn khói thuốc mòn đêm hiu quạnh
Nhớ thuở yêu xưa tình nồng cuồng vọng
Cánh bướm vờn quanh hoa thắm đầu cành.
06/5/2011
Khát vọng (II)
Anh muốn được cùng em bồng bềnh sóng biếc
Cát vàng quê hương thương dấu chân êm
In dáng ngọc mây trời màu ngũ sắc
Biển hát thầm thì giai điệu thần tiên.
Rộng dài anh qua dãy núi trăm miền
Muôn thác đổ tơ trời huyền diệu
Anh gội tóc em suối nguồn tinh khiết
Hái cài lên em những đoá thơm bông.
Anh sẽ dìu em qua những dòng sông
Cầu thả bóng thướt tha tà áo tím
Phía bên kia miệt vườn mướt lá
Anh đắm say nồng nàn môi em.
Bầu trời mùa thu xanh biếc vì sao đêm
Anh chọn những vì sao lung linh trong ánh mắt
Anh giấu vào đáy tim giữ gìn kỷ niệm
Tự buổi đầu cất tiếng yêu em
09/5/2011
Vô đề
Sống một đời lỗi đạo
Chết phách hồn không thăng
Mười phương vái quỳ Phật pháp
Đọa đày địa ngục chín tầng../.
08/5/2011
Phan xi păng
Phan xi păng thầm gọi tên em
Bờ gió lộng khe ghềnh thác đá
Buồn quạnh hiu núi một mình cô lẻ
Rụng bàn tay hóa tuyết lạnh trời xa../.
01/07/2011
Ru tình
Anh không thể tin gặp em là hết nhớ
Mà chẳng tin tim đã chết vì yêu
Bao đêm dài đêm lại nối đêm
Trang nhật kí dày thêm kỷ niệm
Vẫn âm thầm ru em tình ảo mộng
Giọt sương chưa nắng đọng lung linh
Nhịp tim anh phương trời vời vợi
Em hiện về mây thắp bình minh../.
26/6/2011
Rắn
Một đời nương nhờ bờ ruộng cỏ
Đôi lần leo vút ngọn tầng cây
Người bắt dần xương moi tim mật
Hương đồng phố chợ mặc tình say../.
02/7/2011
Nhớ
Cạn dòng mắt lạnh mùa thu
Sương khuya chân mòn phố núi
Trăng sao hững hờ đường vắng
Bóng hình em nhớ tình xưa../.
01/7/2011
Gửi Trường Sa
Nắng nồng ngút ngàn hoang mạc
Dấu chân khuất dần bờ cát
Cô đơn xương rồng trầm lặng
Hoa vàng lưu luyến người đi.
Hanh hao Tuy Hòa mùa hạ
Giọt hồng sương đọng lung linh
Miền Trung tháng ba dậy sóng
Thương người biển đảo Trường Sa./.
03/7/2011
Chờ em
Anh viết bài thơ không kịp đợi vần
Con tim anh sắp chừng rạn vỡ
Một nửa chờ phương em đang tới
Anh cài khóa cửa buồng tim
Màn đêm xuống lửa tình rực cháy./.
23/01/2011
Đêm rượu cần ở bản Thái
Đèn mờ phố nhỏ rưng rưng
Ngàn sao mây trời vời vợi
Cỏ mềm êm dịu làn sương
Nhịp cầu chênh vênh dòng suối.
Tiếng khèn trăng xa mở lối
Nhà sàn ché rượu chao nghiêng
Lời yêu môi kề mắt khép
Một đời thương nhớ người ơi./.
04/7/2011
Vu vơ
Lời vu vơ son tô làn môi thắm
Lời vu vơ nâng dải yếm làm cầu
Đêm bâng khuâng tình tràn gối mộng
Mộng tỉnh rồi để khổ lòng nhau./.
03/12/2010
Sơn nữ
Mộng mơ đắm nhìn sương núi
Nắng chiều vạt gió lang thang
Má hồng hoa đào thắm sắc
Sợi tình em dệt mùa trăng./.
05/7/2011
Thăm Đền Hùng
Mẹ Âu Cơ trên núi Hùng ngập nắng
Bóng đại ngàn giếng Ngọc trong xanh
Mẹ tắm đàn con những giọt mát thơm
Có hương hoa rừng tỏa dâng ngào ngạt.
Một ngày lớn khôn 50 người con đi về phía biển
Chân trời xa Hoàng Sa, Trường Sa
Mẹ nhớ bước con đi gót đỏ hồng son
Tình Mẫu Tử mẹ thương tình Phụ Tử.
Bốn ngàn năm này mai sau ngời rạng
Lời tổ tiên đất nước giang sơn
Biển bạc rừng vàng thiêng liêng gấm vóc
Dòng máu Lạc Hồng ấp ủ trái tim con../.
Đền Vua Hùng - Phú Thọ 10/3/2010
Hai nàng tiên
Như giọt nước sinh đôi
Như ngực trẻ dâng trào sức sống
Long lanh ánh mắt, má thắm dịu dàng
Như cánh sen làn môi chín mọng.
Chưa một lần anh tới Cà Mau đất mũi
Thì lẽ nào thấu được kiêu sa Núi Ngọc Quảng Ninh
Anh chưa tới Hoàng Sa
Làm sao tỏ tường quyến rũ Đảo Yến, Sơn Ca...
Lý trí hối giục bàn chân anh đi tìm chân lý
Tình yêu anh đắm say, nồng cháy
Hai nàng tiên
Hai nàng tiên giữa trái tim anh là một./.
10/7/2011
Ước mộng
Buồn xa sông núi cách ngăn
Đá mòn chờ đợi ngàn năm
Nhìn trăng nhớ thương vời vợi
Ước mộng vỗ cánh chim bằng./.
11/7/2011
Phần II - BÀI HÁT
Khèn
Ơi con gà rừng gọi bạn trên nương...
Ơi con suối quanh đồi hoa nở...
Tiếng khèn anh lá rừng xô dạt
Tiếng khèn anh cây cành đơm hoa.
Quay! Quay... Tiếng khèn anh như dây quấn rừng
Quay! Quay... Tiếng khèn anh hạt mưa mòn đá
Mặt trời đỏ hồng trên đôi má
Mặt trời chìm nơi gấu váy em.
Anh gọi em - gọi vì sao đêm
Anh gọi em - trời sao sáng rực
Anh múa cho ống sáo rẽ rời
Anh múa để lưng khăn rơi xuống đất.
Em hỡi em! Ta còn thương còn nhớ
Đêm từng đêm tiếng khèn anh vắt lưng trời./.
25/3/2010
Xuân sớm
Hờ ơ... ơ ớ... hờ...
Trời nắng sớm, sương buông chiều
Tìm em nơi xa vời
Con suối biếc, gió ngang trời...
Mẹ đưa em lên nương
Mùa vụ mới hoa ban vừa nở trắng
Bạn tình ơi! Cuộc vui tàn rồi
Hương rượu nồng còn vương trên ngực em...
Năm ngón tay ngà em hẹn mùa sau
Hội làng vui cầm tay anh ấm nóng
Hạt sương mai lung linh toả sáng
Hay tình em ước hẹn dài lâu...
Khai bút, mùng 5 Tết 2002
Sơn La đêm rượu cần
Em dắt anh vào đêm rượu cần
Lắng tình thương hương rừng dịu ngọt
Hạt nếp tan thơm nồng trắng sữa
Sừng trâu cong nghiêng tiếng suối trong.
Ngọn lửa ánh hồng rực hoa lên cao
Má em ửng trào ngời tươi xuân sắc
Đôi cánh tay thon dài ngà ngọc
Vai kề vai mái tóc quyện nhau.
Làn gió mơn man lời em mời chào
Anh dừng chân bản em nghỉ tạm
Nhà em đơn sơ sàn tre vách nứa
Đêm nay trăng say anh về nơi đâu?
Ơi Sơn La! Lời hát ngân nga
Sông Đà hẹn vần thơ chưa cạn
Khúc nhạc hồn ta thì thầm tiếng gọi
Thương nhớ ngàn lần cô gái Thái Sơn La.
Bản Bó, 25/7/2002
Đã có video clip Sơn La đêm rượu cần.
Phần III - DƯ LUẬN TÁC PHẨM
Đọc tác phẩm
Trường ca: Anh hùng Lò Văn Giá(1)
Mấy chục năm trở lại đây, những tác phẩm trường ca hầu như vắng bóng trong đời sống văn học. Và nếu là trường ca viết về một người anh hùng hoặc về một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn thì càng hiếm người viết động tới và người dọc thì lại càng dửng dưng. Có thể kể ra nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau nhưng không thể không thừa nhận một điều: Cảm hứng về người anh hùng đang nhạt đi trong lòng người viết và cả ở phần đông người đọc sách. Tôi đọc Trường ca của tác giả Dương Tam Kha trong bối cảnh đó. Vì tò mò. Cũng còn vì anh là đồng nghiệp dạy Văn cũ của tôi. Tình yêu đối với thơ ca đến gần như là mê đắm của anh thì tôi đã biết từ lâu. Anh đã có tới hàng trăm bài thơ tình. Nhưng sau hơn hai chục năm cách biệt, cầm trên tay cuốn sách dày dặn của một nhà xuất bản có uy tín, thì tôi sững sờ. Và tôi còn sững sờ đến kinh ngạc; bởi đằng sau cái tên sách mộc mạc có cái bìa không hấp dẫn là những dòng thơ viết về một anh hùng liệt sỹ người Thái trẻ tuổi trào ra như những dòng nham thạch nóng bỏng. Tôi đọc mà không tin nổi ở mắt mình... Tôi cũng đã có thời, giống như anh, lang thang trên con đường Lò Văn Giá của Thị xã từng được mệnh danh là thị - xã - nhà - sàn, hay thẩn thơ trong Bản Cọ, nơi anh Giá đã sinh ra và lớn lên, nhớ đến những người tù số vuông năm xưa lúc đi cõng gạo từ Tạ Bú về nhà tù, dừng chân ngắm hoàng hôn và những cô gái Thái bên suối...Nhưng từ ấn tượng và cảm xúc tới những hình tượng nghệ thuật được chạm khắc và nung chảy lại là một khoảng cách không thể đo được bằng thước đo thông thường.
Trước khi viết "Trường ca Anh hùng Lò Văn Giá", thầy giáo dạy văn quê hương Thanh Hóa đã sống mê mải với thiên nhiên Tây Bắc, để hồn mình chìm ngập trong những hình tượng ví von duyên dáng nhiều sắc màu của đồng bào Thái, đã khá thông thạo lịch sử chín châu Thái cùng những truyền thuyết, dã sử được kể lại trong những bản tình ca và những sách sử Thái. Anh viết về một xứ sở - quê hương của người anh hùng như đó chính là quê hương thân thiết của mình:
Đất này
Đất của hoa ban
Hoa ban nở
Con ong rừng lạc lối
Con ong rừng
Rung cánh hoa rơi
Để phấn hương thơm
Rối lòng lứa đôi hò hẹn
Tiếng khèn vuốt mềm làn gió lan xa
Chiều nắng đẹp đỏ nghiêng triền dốc
Xanh biếc ánh trăng
Một suối tóc mây
Cô gái Thái
Giấu ánh nhìn đỉnh núi
Chiếc piêu hồng
Che nghiêng ngực tròn trái bưởi...
Nếu không vì giới hạn của bài viết, tôi sẽ trích dẫn ra hàng chục câu thơ đầy hình ảnh rung cảm như thế. Cần khẳng định ngay một điều: "Trường ca anh hùng Lò Văn Giá" trước hết là một bài thơ dài đắm say về đất nước và con người Tây Bắc trùng điệp, một "bản giao hưởng" từ ngữ về tình yêu và khát vọng. Nhưng với tư cách là một trường ca, tác giả đã dày công xây dựng những hoàn cảnh lịch sử - xã hội đầy kịch tính, những chân dung sắc nét về những người tù Cộng sản đeo số vuông, về đồng bào bị áp bức, về kẻ thù của dân tộc - từ đó lý giải tính cách, tâm hồn và hành động xả thân vì nghĩa lớn của người thanh niên yêu nước Lò Văn Giá. Cấu trúc của bản trường ca được xây dựng khá "kinh điển" từ những xúc cảm trữ tình sâu lắng và tinh tế về quê hương Tây Bắc, tác giả dần dần đưa người đọc vào câu chuyện của bản mường những thời"kẻ xấu thèm chiếm đất chiếm mường" rồi từ đó đi vào thân phận đặc biệt của Lò Văn Giá. Từ hoàn cảnh của người thanh niên Thái Bản Cọ nghèo năm xưa, tác phẩm đã dẫn dắt người đọc cảm thông với suy nghĩ, khát vọng của những người tù Cộng sản bị lưu đầy nơi rừng thiêng nước độc - chính những suy nghĩ và khát vọng đó đã cảm hoá sâu sắc Lò Văn Giá và những thanh niên Thái sau đó tham gia vào hội"Tay nóm chất mương"(2). Tác giả lý giải hành động yêu nước dũng cảm của Lò Văn Giá bằng "hồn vía" của đất đai, sông suối, cây cỏ, và bằng tình thương rất người "Anh thương lắm, thương nhiều mường ta..."
Tác giả cũng dành nhiều dòng thơ say đắm miêu tả mối tình của anh Giá với người vợ yêu; vì vậy, sự hy sinh quên mình cho Cách mạng của anh càng có điều kiện khía sâu vào lòng tiếc thương và kính phục của người đọc.
Từ trước tới nay, không hiếm thơ ca, văn xuôi viết về ngục Sơn La(3), nhưng đây là tác phẩm trường ca đầu tiên, mạnh dạn ca ngợi một thanh niên quần chúng Cách mạng tình nguyện bất chấp mọi hiểm nguy dẫn đường cho tù Cộng sản vượt ngục, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa.
Bằng công phu nghiên cứu sử liệu và tìm hiểu thực tế đời sống, với khả năng nhập thân khá sâu sắc, tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và hào hứng những chặng đường dẫn tù vượt rừng đầy hiểm nguy, cả giờ phút chia ly "tuôn trào nước mắt" giữa người thanh niên yêu nước và những người tù Cộng sản rồi sau đó là cuộc gặp gỡ lần cuối đầy yêu thương giữa hai vợ chồng Giá - Liên, và cuối cùng là chuyện Giá rơi vào tay giặc...Hiệu quả thẩm mỹ của tác phẩm đã đạt được khi tác giả đã không chỉ cung cấp thêm cho người đọc những hiểu biết chính xác về lịch sử, mà chủ yếu đã giúp người đọc sống lại với một trong những sự kiện bi tráng và xúc động nhất của lịch sử cách mạng Sơn La thời kỳ tiền khởi nghĩa, đã lay động tâm hồn người đọcbằng tình thương mến và lòng ngưỡng mộ sâu xa đối với người anh hùng miền núi 24 tuổi đời.
Tôi hiểu vì sao mà nhà cách mạng lão thành Nguyễn Văn Trân - một trong bốn người tù Cộng sản vượt ngục vào tháng 8 năm 1943 ấy đã "hoan nghênh tác phẩm" và viết trân trọng ở cuối cuốn sách"Tác phẩm trường ca Anh hùng Lò Văn Giá của tác giả Dương Tam Kha là một công trình rất công phu có giá trị sử thi rất đáng khen...Và mong rằng tác phẩm này sẽ được phổ biến trong các trường học."
Và nhà văn Nguyễn Phan Hách trong lời giới thiệu tác phẩm đã đánh giá một cách công bằng "Tâm hồn anh vọng tiếng gió rừng thác reo và những bản tình ca của những cô gái Thái xinh đẹp. Không có tình yêu đắm đuối với miền đất này, không thể có được những cảm xúc thơ như thế.Cái quý của Dương Tam Kha trong Trường ca “Anh hùng Lò Văn Giá” chính là ở điểm này. Mặt khác tình cảm thành kính, nhớ ơn người anh hùng đã hi sinh vì cách mạng là một điều đáng nêu cao cho thế hệ trẻ noi theo."
Tôi nghĩ, giá như anh kiệm lời hơn, cô đúc hơn trong hình tượng và từ ngữ, gía như ... Nhưng tác phẩm đã ra đời, những điều đáng tiếc chẳng có ý nghĩa gì nhiều so với cuộc sống tự thân của nó trong lòng bạn đọc. Tôi, cũng như nhiều người khác, hy vọng cuốn sách này sẽ có mặt trong thư viện của nhiều trường học trên toàn quốc.
Nguyễn Yên Thế
1. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2003
2. Hội người Thái cứu quốc
3. Như "Hoa đào đỏ" của Huy Bảo, "Người tù áo sạch" của Nguyễn Anh Tuấn,vv
Nguồn: duongtamkha.com
DƯƠNG TAM KHA - MỘT NHÀ THƠ ĐAU ĐÁU VỚI THƠ
Nguyễn Yên Thế
Cứ lâu lâu không lên Sơn La là tôi lại thấy nhớ nhung, bồn chồn. Mảnh đất ấy đã gắn bó với tuổi trẻ khốn khó của tôi - một anh giáo nghèo, nhưng cũng là nơi đã cho tôi cả một mạch nguồn thơ thực phong phú dường vô tận... Và nơi ấy, ngoài học trò vẫn một mực quý mến thầy và các đồng nghiệp cũ đáng kính trọng, tôi còn có một sự gắn bó đặc biệt với một người bạn từng văn cùng trường, cùng sinh hoạt giáo viên tập thể, cùng mang “trọng bệnh” yêu thơ - đó là Dương Tam Kha. Cùng tên với một vị vua cướp ngai vàng cách đây 10 thế kỷ, song Dương Tam Kha lại không có một chút đam mê chính trị nào; anh chỉ say thơ đến độ mê mẩn. Lần nào lên Sơn La, tôi cũng phải cố gắng vào thăm căn phòng bụi bậm đầy sách vở và sặc mùi thuốc lào nằm giữa một khu vườn lớn rậm rịt, để được anh “tra tấn” bằng hàng tập bản thảo thơ dày cộp, bởi tôi đã trót ghim vào tâm tưởng những câu thơ như thế này của một anh chàng được hàng xóm mệnh danh là “thi sĩ hâm”:
“Cỏ may hôm ấy đùa lên má
Để nhớ dâng đầy bờ môi em"
“Có phải em là nàng tiên đến từ cõi Phật
Hay là chúng sinh mong cứu khổ giải oan?
Nhặt chiếc lá khô viết lên câu thơ
Thương giọt sương đêm lệ rưng đáy mắt".
“Thơ Hàn sông lệ vỡ vầng trăng...”
Lần nào chia tay nhau, anh cũng đưa tôi ra bên đường Chu Văn Thịnh đón xe vét khách về Hà Nội, và lần nào cũng thế, chúng tôi đều thấy bâng khuâng, không nỡ rời nhau. Trong bài thơ “Tiễn bạn”, anh đã kể lại cảm xúc ấy:
...Người về thui thủi mình tôi
Sớm khuya một bóng gói lời nhớ thương...
Tôi hiểu nỗi niềm của anh, người đang tìm cách tránh xa những tục lụy của đời sau bao năm tháng vẫy vùng kiếm sống đến tuyệt vọng - bỏ nghề dạy học, đi đào vàng, làm thợ mộc..., để rồi lắm khi nhìn lại mơ ước xưa với không ít bẽ bàng, chua xót:
“Bơ vơ chiều nay, tôi trở lại
Một mình hoang vắng với trời không..."
Và: “Em nơi đâu? Tôi bơ vơ chiều nay.”
Hồi mới lên Tây Bắc, chúng tôi, những chàng trai trẻ tuổi ngoài đôi mươi tràn đầy hào hứng và mơ mộng:
“Nơi đây không có thời gian
Tôi như con bướm say ngàn bông hoa"
Hoặc: “Xứ ngàn xanh yêu quý
Hát ngàn lời đâu hết được hồn ta
Mỗi ngày trôi qua muôn sắc rừng già"
Thực tế phũ phàng của đời sống khiến không hiếm lúc “Dòng thơ trào theo dòng nước mắt”, song không thể cướp đi thi hứng của kẻ “Mơ suốt cuộc đời chiếc áo cóm vòng tay” và luôn nghe thấy, cảm thấy: “Ấm mảnh trăng rừng một tiếng suối trong”, “Hoa ban, hoa đào rưng rưng nước mắt người xưa”, dường như “Tựa hồ thế gian chỉ còn lời hát” của một người tự nhận:"Ta gửi lại mảnh hồn với rừng với suối“... Dương Tam Kha có nhiều bài thơ câu thơ hay viết về Tây Bắc, như đó chính là nơi chôn rau cắt rốn và anh từng lớn lên bằng lời ăn tiếng nói của đồng bào miền núi vậy:
“Đây quê hương tôi:
Hoa ban chạy đi tìm bạn nhớ
Hoa pặc piền thăm hỏi bạn thương"
“Trắng bay hoa gạo thắp sao ráng chiều”
(Quê mới)
“Có những cánh rừng nguyên sinh ven sông Đà
Quanh năm sương mờ giăng đỉnh núi
Có con thuyền độc mộc và thiếu nữ mộng mơ
Neo đậu một ngày bên bờ hoa dại
Đêm trăng có tiếng khèn ai dìu dặt
Gieo bước hoang vu trên con đường làng
Bất chợt em sửa lại chiếc piêu hồng
Mùa xuân nở bên dòng suối
(Bất Chợt)
“Cành ban đầu khuống em, anh đỡ
Cành bưởi cuối nhà em anh nâng
Bậc cầu thang ngập ngừng từng bước
Tiếng động sàn ngỡ gót em qua"
(Đêm ngủ nhà sàn)
“ Em ngồi miệt mài trong khung cửi
Cánh bướm vờn quanh những đường tơ
Tay ngà đưa nắng trên nhung lụa
Nắng như hoa đậu vườn ban trưa.
Ngôi nhà sàn nghiêng bên sườn núi
Bếp lửa hồng sao biếc vờn quanh"
(Khăn piêu)
“Thương nhớ mênh mông đêm hội rượu cần
Xòe ban trắng cồng chiêng tràn mặt đất"
Cảm xúc tràn đầy và những quan sát kỹ lưỡng tinh tế về thiên nhiên - con người Tây Bắc là cơ sở để anh viết được thiên trường ca “Anh hùng Lò Văn Giá” ngót 4.000 câu thơ! (NXB Hội nhà văn)
Nhiều năm sau, nhìn lại, anh có thể nói với người se duyên kết tóc với mình:
“Bao dặm dài anh qua
Mái tóc giờ điểm bạc
Yêu thương một mái nhà
Say tình người xứ lạ"
Nơi trập trùng rừng núi miền Tây, anh thường nhớ tới đồng bằng, vùng quê thời mới lớn từng có một “Cặp mắt long lanh đánh đuối hồn tôi.... ” Và với hồi ức của người đang sống giữa thiên nhiên Tây Bắc nơi thượng nguồn sông Đà, sông Mã, anh đã có những câu thơ viết về quê hương vùng hạ nguồn sông Mã thật thấm thía:
“Tôi lớn lên từ một làng quê có một dòng sông
Có gió mặn mòi cơn nồm cơn bấc
Có giọt mồ hôi và rét buốt tê người..."
(Sông quê)
“Chuông chùa động thinh không
Tí tách tiếng mưa vọng lại
Trong sương khói vị sư già chậm rãi
Chiều vội qua mau hoa nở lạnh lùng.
Có thể là con rùa già hóa đá
Linh hồn oan định nhập cõi thiền..."
(Thăm lại làng xưa)
“Mưa gõ nhịp tiếng kinh cầu mõ lạnh
Mây núi giăng sương tựa khói lâm tuyền
Hàng trúc đợi vị sư già khổ hạnh
Chậm bước hoàng hôn dâng thắp hương đèn."
Quê hương hiển hiện trong tâm hồn thi sĩ qua những hình ảnh thân thuộc với bao thế hệ, và cũng thật “cổ điển” đối với thi ca:
Nâu sồng, cơm vắt, tương cà
Câu dân ca một thời phiêu dạt...
Gánh cực dồn bước trèo non
Song mây quang đứt tủi hờn nén thương
Thân cò sớm nắng chiều sương
Hoang hoang lạnh bãi truông sình lầy
Anh viết về người mẹ chốn quê cũ có “Mái tóc trắng màu cánh cò lặn lội” như sau:
“Nuôi con cạn bấc dầu hao
Nếp nghèo gia giáo một câu tâm nguyền
Đạo Nho, đạo Phật lưu truyền
Vui hòa nước mắt trải miền gian truân.
Mẹ dẫu xa vẫn như gần
Trang thơ con lại nối vần ông cha"
Những lần lang thang trong chợ phiên ở thị xã, khi mà “Mây và trăng anh không thể đem ra nơi chợ phiên”, Dương Tam Kha có dịp ngẫm lại ý nghĩa cuộc đời mình:
Bơ vơ đi chợ chiều nay
Không mua chẳng bán mới hay phận mình...
Thực ra, anh đã làm đủ thứ việc để mưu sinh, nhưng chẳng việc nào ra hồn, trong khi đó thì “Sách đèn thơ phú quên tháng ngày ”, thơ vẫn bám theo như một duyên nợ tự kiếp nào:
“Rừng sâu núi thẳm xa vợ con
Lên núi tìm vàng vàng chẳng có
Làm thơ khóc đời ta không đặng
Ngày ngày thơ thẩn bên suối vắng
Nhặt hòn cuội trắng ném lên trăng."
“Ta làm thơ
Đãi nghìn vạn con chữ
Lang thang một mình
...Vì đời càng thêm mắc nợ
Câu thơ chưa phải là vàng
Bán không có ai mua
Cho người chẳng nhận"
“Chữ nghĩa văn chương sao mà nặng
Ngũ tuần tay vẫn trắng bàn tay."
Cay đắng thay, kẻ nặng nợ với văn chương làm sao đủ bản lĩnh để đối chất được với sự dè bỉu của những người tỉnh táo:
Ông là nhà thơ hử?
Tôi không có thời giờ
Mưu sinh dày công chuyện
Thơ dành người mộng du!
Nhưng rồi, bởi “thơ từng chữ như hơi sương đọng lại” nên nhà thơ đành chấp nhận cái phận: “Còn lưng đôi chữ hong vào đèn đêm”, và :
“Thương câu lục bát bơ vơ
Tháng ba có một khách thơ bạn cùng..."
“Thôi đành một kiếp đa đoan
Giọt cay giọt đắng tìm sang bạn hiền"
“Tôi còn nợ trời tròn đất vuông
Đi tìm đôi câu lục bát..."
Say thơ đến độ, anh đã làm cả một trang Web: “Dương Tam Kha toàn thơ”!
Dương Tam Kha từng tuyên bố rằng, nguồn sống chính của thơ anh không phải là kỷ niệm và vẻ đẹp của hoa lá, mà là nỗi đau khổ của “Những người dưới đáy cùng xã hội/Hồn nhập đời ta.” Hàng ngày chứng kiến cảnh Chợ Người, anh thương cảm cho những người:
“Trông chờ đồng tiền rẻ mạt”:
Bán mồ hôi, máu và nước mắt
Mặt trời úa vàng, làn da xanh xao.
Có kẻ thở dài ngao ngán
Nói lời có vần:
“Gánh cứt đi đổi rắm!”
(Tục ngữ của dân tộc Thái)
Nhà thơ đàn anh Vương Trung người Thái đã khen bài thơ này hay, và hiện thực lắm. Mượn một câu tục ngữ địa phương tưởng không có gì là thơ cả, anh đã nói được cái sâu lắng của lòng mình cùng sự thật phũ phàng - và đó cũng là chất thơ chân chính!
Có biết xót xa thương cảm, anh mới biết căm giận những “Bóng đen”:
Kẻ ganh ghét tài năng, hận thù văn minh
Chiếm đoạt học vị, chức quyền hèn mạt
Hắn giấu ngang qua hai thế kỷ
mới biết đồng cảm với những bài thơ thế sự và tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Ngô Văn Phú:
Xa xót cuộc đời, xa xót kiếp người
Người viết sử vạch mặt bầy gian ác
Kẻ xu thời vênh vang đội lốt
Chữ tâm hèn ngồi chiếm ngôi cao.
Một trong những bài thơ hoàn bích hơn cả của Dương Tam Kha là bài “Phố núi”, viết tại Sa Pa. Nếu ai đó tới đây chỉ thấy vẻ đẹp, sự thi vị, thì thông qua cái nhìn của một anh họa sĩ, nhà thơ đã vẽ lên sự tương phản của hai cảnh sống - giữa chủ nhân của các biệt thự sang trọng, các du khách với những cảnh:
“Mẹ dắt đàn con, em lả trên vai chị
Lần lữa tháng ngày hàng rong lưu niệm".
“Mấy cụ già đàn hát bản xa
Hai góc chiếu ngồi như tượng đá"
“Hàng rào đá ngăn bầy trẻ nhỏ
Lũ trâu gầy gặm cỏ cằn khô."
“Cả bản ngược xuôi lên rừng xuống phố
Đôi mắt dại cháo rau cuối chợ
Bước mỏi mòn u ám chiều mưa."
“Chàng hoạ sĩ nghiêng mái đầu tóc xoã
Bức tranh này chàng vẽ đến bao giờ...?"
Nhưng Dương Tam Kha không chỉ biết trữ tình và thốt mỉa mai, căm giận, anh còn biết tự trào - và đó cũng là một khía cạnh riêng khá lý thú của thơ anh. Đây là một bài mới nhất của anh, cho thấy sự trưởng thành của bút pháp cũng như cái nhìn của nhà thơ về cuộc đời:
“Chùa nương động núi sương giăng lạnh
Khói nhang đèn mờ Phật hay Tiên?
Phận nghèo lòng thành tâm hương nguyện
Phật cười: “Kiếp trước tôi giống anh!”
(Phật cười)
Anh chế riễu Nàng Thơ - tức cũng chế riễu mình chơi:
Nàng thơ... Đích thị là ả đa tình, trái tính, trái nết.
Nàng làm khổ ta phút phút, giờ giờ, đêm đêm,
ngày ngày, tháng tháng, năm năm.
Ta chẳng còn gì mà nàng đâu chịu buông tha
Mời nàng về làm một Manơcanh để nơi cánh cửa
Hay bên cạnh ban thờ thêm vui nhà, vui xóm!
Nhưng, anh lại thú thực ngay sau đó:
“Cái ta có được giờ đây là mái tóc bông mây
Và ngày ngày nàng thơ hằng gõ cửa"
Chắc anh không thể làm gì hơn cái việc: "Hát đến bao giờ vơi nỗi cô đơn". Và trong cảnh ngộ “Bao niềm tin, hy vọng tan thành mây khói”, anh vẫn luôn tâm niệm:
Trang thơ anh dầu ngót nghìn bài
Chưa một lần nỡ phụ tương lai...
Giờ đây, anh đã rời Sơn La lên sống với gia đình trên thành phố Lào Cai; anh lại tiếp tục hòa mình vào cuộc sống của đồng bào dân tộc, tiếp tục ngẫm ngợi, làm thơ ... và nhớ bạn thơ. Còn tôi, mỗi lần ngược Sơn La làm phim, lại nhớ về căn phòng văn ngập bụi và khói thuốc lào của anh, ngâm nga câu thơ của anh để nói hộ lòng mình:
Người về thui thủi mình tôi
Sớm khuya một bóng gói lời nhớ thương...
* Những câu trong ngoặc kép và in nghiêng là thơ của Dương Tam Kha lấy từ các tập thơ:
1. Trăng hai miền (NXB Thanh niên)
2. Hạt sương
3. Hạt muối
4. Khát
5. Hương mùa (NXB Văn học)
Trích từ nguồn vandanviet.net
Vài suy nghĩ về bài thơ
“ DƯ ÂM TIẾNG GÀ” CỦA TÁC GIẢ DƯƠNG TAM KHA
“ Khôn ba năm dại một giờ” lời căn dặn có tính cảnh báo của ông cha ta không ai là không biết. Thế nhưng có người đã có lúc để dục vọng thấp hèn dẫm đạp lên lương tri nhằm thỏa mãn những toan tính bất lương và thú vật của mình.
Bài thơ “Dư âm tiếng gà” ( trong Tạp chí Suối Reo, số 1 năm 2008) viết về một con người như thế.
Lời thơ mở đầu với tâm trạng thương cảm xót xa và đôi chút trách cứ người bạn lỡ lầm:
Hỡi ôi!
Giữa hai canh gà
Một người vội vã ra đi…
Mà người bạn này đã có một thời:
Mới hôm nào
Anh là người tốt
Nhường nhịn người thân
Yêu thương bạn bè như ruột rà
Hi sinh vì đồng đội
Có nghĩa, có nhân
Trái tim anh một thời
Bùng lên ngọn lửa ngút cao dữ dội
Lời thơ mộc mạc, ý tứ rõ ràng nêu bật tình cảm đẹp đẽ cao thượng, ý chí phấn đấu mạnh mẽ một thời của người bạn . Vì vậy, hơi thở tràn dâng niềm quý mến, kính phục của tác giả.
Nhưng tiếc thay và xót xa thay:
Một khoảnh khắc thôi
Lơ là cảnh giác
Tha hóa phẩm chất
Cửa quyền, hách dịch
Tham nhũng, trù dập
Tự mãn, tự kiêu
Sa đà vào ăn chơi trụy lạc
Cái khoảnh khắc định mệnh ma quỷ đã khiến anh từ vị thế được trọng vọng rớt xuống chỗ bị khinh bỉ. Vào một thời điểm nào đó, trước những ma lực cám dỗ của quyền hành, đồng tiền, dục vọng thì ranh giới giữa thiện và ác, tốt và xấu.v.v. chỉ là một sợi chỉ mỏng manh. Đó là lúc con người phải cảnh giác, đừng để thú tính đè bẹp nhân phẩm, cái xấu, cái ác ngự trị trong tim, trong óc. Có ai đó đã nói rằng: “ Đừng để lỗi lầm xảy ra lần đầu thì sẽ không bao giờ có lần thứ hai”. Đó là một lời khuyên khôn ngoan.
“ Nhân nào quả ấy” , cái gì cũng có cái giá của nó. Sống bạc ác, trụy lạc sẽ phải nhận một kết cục đen tối bi thảm:
Chiếc lá còn xanh tự rời cành
Buông mình theo dòng đời đục tối
Bóng ma đêm đen đưa anh vào con đường tội lỗi.
Sự “ ra đi” của anh không bình thường, không theo quy luật “ Sinh, lão, bệnh, tử” mà là “Một người vội vã ra đi”, “ Chiếc lá còn xanh tự rơì cành”. Cái chết thảm bại của anh là chính anh gây ra. Nó sẽ không xảy ra nếu như anh giữ được phẩm chất tốt đẹp như anh đã từng có.
Mấy câu kết luận nhẹ nhàng nhưng từ ngữ, ý tứ rất sâu sắc vừa mang tâm trạng buồn thương, nuối tiếc cho số phận một con người vừa là lời nhắn nhủ mọi người hãy cảnh giác tránh xa vết xe đổ:
Tôi viết cho anh và viết cho ai
Ở nơi chín suối
Còn dư âm tiếng gà lần cuối
Cái chết thường để lại biết bao nỗi lòng thương xót khôn nguôi, có khi có cả lòng mến phục. Nhưng cái chết không bình thường của anh bạn là tiếng xấu để đời. Buồn thay!
Muốn tránh vết xe đổ, phải dùng vũ khí sắc bén là phê bình, tự phê bình một cách thường xuyên. Về ý thức tu dưỡng, nhà thơ Việt Phương đã có một câu thơ rất thâm trầm sâu sắc: “ Cứ mỗi ngày, ta tự kết nạp ta vào Đảng “. Tu dưỡng tốt sẽ trở thành con người XHCN . Có con người XHCN mới có xã hội giầu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh.
Hiện nay, nhân dân ta đang ra sức học tập và làm theo tấm gương đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một biện pháp vô cùng quan trọng và cần thiết nhằm tiêu diệt mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân ích kỉ bẩn thỉu, chúng ta rất cần có những bài thơ có tính nghệ thuật và tính tư tưởng cao như bài thơ “ Dư âm tiếng gà” ./.
Sơn La, tháng 03 năm 2008 .
Hà Sinh
Đêm mộng
Đêm từng đêm
Chập chờn cơn mê
Trăng khuya đẩy cửa
Trăng hay bóng em...?!...
Mắt em cong vành trăng lược
Làn môi thắm đỏ
Chân êm lối cỏ
Tường vi cành mềm hé nụ
Những đoá hoa lê
Hương thơm nhũ non ngần trắng
Muôn vì sao lung linh
Sông Vàm sóng vờn dịu êm.
Đêm mộng thần tiên
Thuyền Trương Chi đậu
Tiếng sáo nỉ non
Trăng thanh bến vắng.
29/3/2011
Vài dòng cảm xúc cho thơ - Gởi bởi : Lâm Thị Thanh Trúc - Vào lúc : (09-04-11 | 22:29)
Kính gửi tác giả “Đêm mộng”
“Trăng thanh bến vắng” nhưng lòng thì xao động bởi “tiếng sáo nỉ non” của chàng Trương Chi ôm khối tình si trốn xuống Tuyền Đài.
“Trăng thanh bến vắng” nhưng trái tim thổn thức chập chờn theo tiếng đẩy cửa khẽ khàng “trăng hay bóng em...?!...”
“Trăng thanh bến vắng” nhưng hồn mộng đêm tiên vẫn lắng nghe được những âm thật khẽ, thật nhẹ “chân êm lối cỏ”, “sóng vờn dịu êm”...
Một trái tim yêu đơn phương thì muôn đời không thể thanh vắng, sóng lòng khuấy động sóng lòng, từng cơn!!!
Phần IV - TÀI LIÊU VĂN HỌC SỬ
Thương mẹ
(Nhớ ngày giỗ đầu của mẹ)
Bao ngày mòn khô vườn đá
Bao ngày cây lặng phong rêu
Tiếng chổi vun từng đống lá
Tiếng gãy mấy cành củi nhỏ...
Mẹ nghe từ hư vô vang động.
Mùa đông!
Hanh hao đôi bàn tay gầy
Lưng mẹ dần còng
Ôi giá lạnh
Que diêm ẩm hắt hiu gió lộng!...
Âm âm ngọn khói
Trang bản thảo khơi lên ngọn lửa
Mắt mẹ mờ theo năm tuổi
Giờ mẹ đi xa, xót lòng con biết mấy!
Mẹ già đốt lá trầu khô
Cháu con xa vắng héo hon lòng già
Đường trần ngàn dặm phong ba
Cháu con xum họp một nhà gì hơn!
Bể đời vạn lớp sóng cồn
Nẻo giăng cát bụi vẫn còn ngày xưa
Nhớ ruộng đồng lúc nắng mưa
Kháng chiến gian khổ đã thừa khổ đau
Nuôi con cạn bấc dầu hao
Nếp nghèo gia giáo một câu tâm nguyền
Đạo Nho, đạo Phật lưu truyền
Vui hòa nước mắt trải miền gian truân.
Mẹ dẫu xa vẫn như gần
Trang thơ con lại nối vần ông cha
Ba năm trở lại quê nhà
Mẹ chờ mấy đứa con xa xum vầy (1)./.
03/6/2010
Giếng làng
(Kỷ niệm chuyến về xây mộ chờ khi qua đời)
Thẫn thờ hình bóng in giếng làng
Mái đầu bạc trắng ngời ánh trăng
Vầng mây lơ lửng neo ngừng lại
Vì sao lãng đãng ngàn trùng khơi.
Có phải là tôi! Tôi đó chăng?
Nửa đời phiêu dạt chốn rừng hoang
Ngày đi có hẹn khi còn gặp
Đâu là địa ngục hay thiên đàng?
Từ độ xa quê mãi ăn năn
Cúi xin cỏ nội chốn yên nằm
Làng quê đất ấm nuôi ta lớn
Ôi mảnh đất cằn cỏ vàng trăng!
Tổ ấm ta về nơi cố hương
Da diết dòng sông vạn tình thương
Bao lần nhỏ lệ lên trang viết
Ngời văn bi kí đời gió sương*./.
Sinh nhật 17/5/2010 (55 tuổi)
Quê nhà
1 - Phố và phố...
Cơn lốc bụi mù
Mưa đỏ gõ cửa kính
Ngạt nồng hơi xăng
Ken dày vuông hộp xi măng
Dãy nhà tù dài giam cầm lũ dế
Ngược chiều gió thổi
Ngược chiều nhân gian
Con đường từ phố về làng...
2 - Ôi! Bãi cỏ hoang... bãi cỏ hoang!
Triền đê gió lộng
Luỹ tre, đồi gò
Đàn cò trầm tư hoá đá
Cánh buồm và dòng sông
Đất nâu ruộng cày phơi ải
Lưng mẹ mỏi mòn
Chiều vội tung lưỡi hái
Đồng cạn, đồng sâu
Tiếng chim gọi bạn
Những dấu chân chim chìm sâu gương mặt
Hắt hiu làn khói xám
Quê nhà, ấu thơ
Đất bùn nuôi ta khôn lớn./.
03/5/2010
DI CHỈ VĂN BIA
Lời mở đầu
- Văn chỉ thờ đức Khổng Tử nho giáo Tổng Ngọ Xá tại núi Ngưỡng Sơn, xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung - Thanh Hoá cách đây 117 năm (1889 - 2006) đã trên một thế kỷ.
Nay không còn di tích 1 vạn năm chỉ còn một cái bia đã vỡ 3 mảnh.
- Xuất phát tình hình thực tế: Cuộc chiến tranh chống Mỹ.
- Di tích văn hoá xã chưa vươn tới.
- Họ Dương Chính ông Dương Chúc - Trưởng tộc, kỹ sư đại học, cán bộ huyện Hà Trung khởi xướng cùng cháu chắt trong họ đem 3 mảnh bia đã xây dựng kiến trúc đặt tại mộ cụ tổ Dương Hoán.
1. Tôn sư trọng đạo nho giáo.
2. Kính trọng tôn nghiêm một nhà đại diện nho giáo: Văn thân tú tài Dương Thể Hoán là cụ Tổ đời thứ 11 họ Dương Chính viết bài văn bia. Cụ đặt rất cao nền móng hiếu học, hiếu học cho cháu chắt trong dòng họ thông minh học giỏi thi cử đỗ đạt trở thành người tài phục vụ nhân dân quê hương đất nước.
PHIÊN ÂM
"Thiên di văn chỉ bi ký"
Bản tổng văn chỉ
Đinh Mão xuân (1867)
Phan - ty chánh bát phẩm, bổ Lạng Sơn kinh lịch Nguyễn - Công - Sở cung tiến đã, kỳ tạo đoan Thuỷ cụ Hữu Tiền Bi bất cu tu chế thuyết viết Kim Tổng nội đa sỹ vi học bất tố nguyệt ứng cử vị cặp tiền khoa dục chấn ty văn chi uỷ my đắc... trọng phiên chỉnh đồn hồ, toại thương đồng thân hào kỳ lão trí vu trung nhạc, kiến kỳ hậu, ỷ kỳ tiền thân chúng dục sơn xuyến chi anh Tú - ngưỡng quan phủ sát bàng la thiên địa chi văn Chương, đức khả dữ tham hẩy, văn kỳ tại tư hồ - viên trạch, cát nhật kiên cáo chung thiên vu ty tân chỉ tiên thiên khôn càn ty văn mạnh mạch ức thiên vạn niên cẩn thuyên vu thạch, dĩ tho kỳ truyền.
- Thành thái nguyên niên (1889) lục nguyệt, sơ thập nhật.
- Văn thân, tú tài - Dương Thể Hoán
- Hưng công - chánh tổng Phạm Đình Chân
- Phó tổng - Lê Văn Tòng
- Cứu phó tổng - Phạm Văn Cảnh
- Tuần tổng - Nguyễn Văn Năm
Bốc thiên tuyển ký cung tiến thành bi nhất toạ: Bùi thôn cư dĩ: Trịnh Văn Mô.
- Trang các xã
Lý trưởng: Hoàng Văn Thập
- Biểu hiệu xã:
Lý trưởng: Lê Văn Mẫn
- Thượng phú xã:
Đoài thôn lý trưởng: Hoàng Văn Uy
Đông thôn lý trưởng: Phạm Xuân Cần
- Ngọc âu xã:
Ninh thôn lý trưởng: Trần Văn Viên. Thạch bằng thôn lý trưởng: Trình Văn Lữ Cửu Thị Giáp lý trưởng Đỗ Xuân Hạp. Hưng thôn lý trưởng Lã Văn Vỵ. Đông trung thôn lý trưởng Lê Văn.
- Ngọ xá xã:
Trần thôn lý trưởng Lê Văn Tuần
Na thôn lý trưởng Phạm Duy Tân
Yên Vinh thôn lý trưởng Nguyễn Công Diệm
Tương Lạc thôn lý trưởng Vũ Văn Lễ
Vũ thôn lý trưởng Mai Văn Quyền
Yên Phú thôn lý trưởng Phamh Huy Triển
Bùi thôn lý trưởng Hoàng Văn Thương.
BÀI KÝ
Thiên di văn chỉ
Viện Hán nôm Trung ương dịch
Văn chỉ bản tổng do chánh bát phẩm phán ty Lạng Sơn Nguyễn Công Sở cung tiến vào năm Đinh Mão (1867).
Việc làm văn chỉ đã có bia ghi lại không phải nói nhiều, nho sỹ học hành mà không biết noi theo chân nho nên phải nêu gương các bậc tiền nho để trấn hưng tư vấn sa sút.
Vậy thương lượng với các bậc thương hào kỳ lão thiên di tới trung nhạc có tiền án, hậu chẩm, sơn xuyên chung dục quả là đất văn chương vậy chọn ngày tốt kính cáo thiên di về nơi mới.
Văn mệnh mạch tư văn ngàn năm mãi mãi vậy khắc vào đá để truyền lâu dài.
- Ngày 10 tháng 6 thành thái thứ 1 (1889)
- Văn thân tú tài: Dương Thể Hoán
- Hưng công chánh tổng: Phạm Đình Chân
- Phó tổng: Lê Văn Tòng
- Cựu phó tổng: Phạm Văn Cảnh
- Tuần tổng: Nguyễn Văn Năm
BÚT KÝ
Bia đá văn chỉ thờ Đức Khổng Tử đặt tại mộ tổ họ Dương Chính
Mục đích nội dung bài văn bia do cụ Dương Thể Hoán văn thân tú tài biên soạn viết. Khắc bia đá đặt tại Văn chỉ thờ Đức Khổng Tử của một Tổng ngọ xá (trước là tổng Ngọc Âu) bao gồm 5 xã, 16 làng.
Xã Ngọc Xá gồm 7 làng
Xã Ngọc Âu gồm 5 làng
Xã Thượng Phú gồm 2 làng
Xã Biểu Hiệu 1 làng
Xã Trang Các 1 làng
- Dưới chế độ phong kiến nước ta từ ngàn xưa nhân dân cùng các thân hào thân sỹ nho giáo tôn sư trọng đạo, tôn sư sùng đạo nho Khổng Tử kiến trúc xây dựng văn chỉ thờ Đức Khổng Tử, Mạnh Tử và các bậc tiền bối văn nho.
- Đầu xuân năm mới hàng năm các vị văn thân gồm Tiến sỹ cử nhân, tú tài và những người ngưỡng mộ văn học, học thức cao, tổ chức lễ nghi cúng tế long trọng để cầu mong cho nhân dân con cháu học hành thông minh khoẻ mạnh, thì cứ đỗ đạt công thành danh toại.
- Tổ chức này ở tỉnh Thanh Hoá có văn chỉ thờ Đức Khổng Từ địa điểm tại làng Hà Sen gần chợ Phủ huyện Hậu Lộc xuống đến tổng làng thí dụ như Tổng Ngọ Xã năm Đinh Mão là năm 1867.
Tự Đức năm thứ 20 (Tự Đức 1848 - 1883) kiến trúc xây dựng văn chỉ ở đỉnh núi xạ làng Thượng Phú (trước là làng Thăng Đường) do cụ Nguyễn Công Sở chức vụ Phan ty chánh bát phẩm Lạng Sơn kinh lịch quê làng Thượng Phú cung tiến xây dựng.
- Mỗi làng trong xã có xây dựng văn chỉ có tổ chức hội làng Văn hàng năm đều tế lễ như Làng Na. Văn chỉ thờ Đức Khổng Tử ở sau Nghè Na.
- Đến đời cụ Dương Thể Hoán một nhà văn thân tú tài.
+ Sinh năm 1842
+ Mất năm 1922
- Năm 1870 đời vua Tự Đức nhà Nguyễn cụ thi đậu tú tài.
- Năm 1873 đời vua Tự Đức nhà Nguyễn, cụ lại thi đậu trường Nguyên (sau là cử nhân).
- Năm 1889 vua Thành Thái năm thứ 1 lúc bấy giờ cụ 47 tuổi (1842 - 1889) sau 16 năm đậu tú tài, cử nhân.
- Cụ nghiên cứu: Tổng Ngọ xá địa dư ruộng, dân số đông, bao gồm 5 xã 16 thôn, hàng năm nhiều học sỹ thi cử không đậu, thi có đậu rất hiếm.
- Theo truyền thuyết học sỹ thi cử không đậu là do Văn chỉ thờ Đức Khổng Tử đặt địa điểm cũ chưa đúng, không được hướng "Văn mệnh mạch" dù có học giỏi, thi cử không đậu, phát triển văn học chậm.
- Năm ấy cụ có sáng kiến đề xuất thông qua cụ Nguyễn Công Sở chức vụ là Phan ty chánh bát phẩm Lạng Sơn kinh lịch gốc quê ở làng Thượng Phú, đồng thời bàn bạc với thân hào, thân sỹ, kỳ lão chánh Phó tổng, lý trưởng trong toàn tổng cùng nhau đi đến thăm quan ngoạn cảnh cả một vùng bao quanh núi Ngưỡng Sơn (có đến thờ đức Lý Thường Kiệt).
- Địa thế núi Ngưỡng Sơn rất hùng vĩ, cơ sở tốt đẹp phát triển văn học tạo nguồn động lực lớn cho học sỹ thi cử đỗ đạt, danh vọng cao sang.
- Ca tụng địa điểm văn chỉ đặt trên núi Ngưỡng Sơn thật là tuyệt vời.
Cụ có viết: "Kiến kỳ hậu, ủ kỳ tiền - thân chung dục sơn xuyên chi anh tú
Ngưỡng quan phủ sát bàng la thiên địa chi văn chương".
- Bàn bạc thống nhất chọn ngày lành tháng tốt là ngày mùng 6 tháng 10 năm 1889 Thành Thái năm thứ nhất, quyết định dời văn chỉ thờ Đức Khổng Tử của Tổng Ngọ Xá về xây dựng địa điểm phía Bắc núi Ngưỡng Sơn - xã Hà Ngọc.
Hoàn thành việc xây dựng văn chỉ hội văn học hàng tổng tu lễ cúng tế kính cáo với trời đất.
Tôn sư trọng đạo kính cáo với Đức Khổng Tử, Mạnh Tử và các bậc tiền bối văn nho chứng giám, chấp nhận cầu mong độ trì "Văn mệnh mạch" lưu truyền mãi mãi cho muôn đời sau.
- Cụ Dương Thể Hoán có viết một bài văn bia khắc vào đá đặt tại địa điểm, văn chỉ Đức Khổng Tử ký tên là văn thân tú tài Dương Thể Hoán.
Phần tiếp theo những cụ có lòng cung tiến để xây dựng văn chỉ.
- Chánh tổng
- Phó tổng, cựu phó tổng
- Tuần tổng - Cư sỹ
- Lý trưởng 17 thôn trong 5 xã.
- Bài văn bia đầu đề là: "Thiên di Văn chỉ bi ký"
* Giai đoạn chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ trên 30 năm trời.
Quê hương Hà Ngọc giặc Mỹ đánh phá tang thương ác liệt - Đền chùa, miếu mạo, văn chỉ hàng tổng bị phá sạch, không còn nữa.
Nay vẻn vẹn chỉ còn một cái bia đá lại bị đập vỡ làm 3 mảnh.
***
- Trưởng đất và cụ Văn nho tiền bối đã ban lộc cho gia đình cụ:
- Đời Thành Thái lục niên năm 1894 con trai cả của cụ tên là Dương Quýnh, sinh năm 1864 - năm 30 tuổi thi đậu tú tài.
- Đời Thành Thái cửu niên, năm 1897 hai người con trai của cụ là:
+ Con trai cả: Dương Quýnh, 30 tuổi đi thi lại đậu cử nhân.
+ Con trai thứ 2: Dương Huyến, 28 tuổi sinh năm 1869 đi thi đậu tú tài, sau 5 năm là năm 1903, 33 tuổi đi thi lại đậu tú tài (gọi là tú kép).
- Người cháu của cụ là con của cụ Dương Huyến, năm 1915 thi đậu tú tài.
- Chứng minh rằng: Việc dời văn chỉ thờ Đức Khổng Tử đến địa điểm núi Ngưỡng Sơn, xã Hà Ngọc là năm 1889 năm Thành Thái năm thứ nhất thì sau 5 năm con trai cả của cụ thi đậu tú tài.
- Sau 8 năm hai người con của cụ, hai anh em đi thi đồng khoa.
Con trai cả thi lại đậu cử nhân, con trai thứ 2 thi đậu tú tài.
- Sau 14 năm người con trai thứ 2 của cụ đi thi lại đậu tú tài (gọi là tú kép).
- Sau 26 năm người cháu, con cả của cụ Huyến là Dương Chiến đi thi đậu tú tài.
- Anh em con cháu của cụ đều học chữ nho, các khoa thi (thi Hương ở tỉnh, thi hội thi đình ở Kinh đô Huế).
+ Các cụ có đi thi nhưng không đậu.
+ Kế tục truyền thống cha ông, sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa con cháu chúng ta nối tiếp thi đậu tiến sỹ, phó tiến sỹ, cao học, đại học, là văn nghệ sỹ, doanh nhân từ tâm tài cao đức trọng.
***
Kết luận: Cụ Dương Thể Hoán là một nhà văn thân nho giáo, có trình độ học vấn, uy tín lớn đối với thân sỹ, hào mục kỳ lão trong tổng.
- Đặt cao vấn đề "Khuyến học" động viên con cháu trong toàn tổng thông minh học giỏi trở thành người tài phục vụ quê hương đất nước.
- Cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu trong dòng họ "Uống nước nhớ nguồn và coi trọng âm phúc của cha ông tổ tiên".
- Chắc chắn nhất định con cháu chúng ta đạt điểm cao trong nền văn học thời đại.
- Hôm nay, ngày 17 tháng 3 năm Bính Tuất (2006) tiết thuộc Thanh Minh, con cháu dòng họ Dương Chính do ông Dương Chúc - Trưởng tộc đại diện đem bia văn chỉ hàng tổng dựng bên mộ cụ - Thuộc khu vực phần mộ tổ họ Dương Chính.
- Với lòng kính trọng tôn nghiêm một vị tổ đã có công lao lớn nhất ở thế kỷ XIV - thể hiện một dòng họ mang theo dòng máu nho giáo, hiếu học mà các cụ tổ đã viết di huấn truyền lại cho bao thế hệ con cháu sau này.
- Kính mong các vị thuỷ tổ, các vị tiên tổ dòng họ Dương Chính chứng giám độ trì cho cháu chắt khoẻ mạnh, học hành thông minh ngoan ngoãn.
Gia đình hạnh phúc ấm no, đoàn kết vui vẻ, thành đạt.
- Xứng đáng tự hàng quang vinh thay họ Dương Chính đã có nền móng "Di tích văn hoá" lâu đời.
- Quá trình tham khảo ý kiến các cụ nhiều tuổi trong xã như: Cụ Mai Hữu Ngoạn - Cán bộ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch UBND huyện Hà Trung, đồng thời nghiên cứu bài văn bia và đối chiếu một số tư liệu trong gia phả họ Dương Chính cũng chưa thật đầy đủ, xúc tích.
Do trình độ văn hoá còn hạn chế, mong rằng cha chú, cháu chắt trong dòng họ hết sức thông cảm cho.
- Ra sức phấn đấu nhiệt tình tham gia đóng góp bổ sung phong phú, hoàn hảo hơn, thật là quý giá vô cùng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
- Hà Ngọc, ngày 17 tháng 4 năm 2006
(Ngày 20 tháng 3 Bính Tuất)
Tác giả: Dương - Đát
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
18 Nguyễn Trường Tộ - Ba Đình - Hà Nội
ĐT: 04.7.161.518 - 04.7.161.190
Fax: 04.8294.781
E-mail: nxbvanhoc@hn.vnn.vn
Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh
290/20 Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Quận 3
ĐT: 08.8469858 - Fax: 08.8483481
Chịu trách nhiệm xuất bản:
NGUYỄN CỪ
Chịu trách nhiệm nội dung:
NGUYỄN THỊ HẠNH
Biên tập: HẠNH DUNG - THUÝ HỒNG
Trình bày: THU HÀ - THU HUYỀN
Bìa: MINH THẮNG
Sửa bản in: DƯƠNG TAM KHA
In 1.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5 cm, tại Công ty TNHH một thành viên In báo Lào Cai. Địa chỉ: 045 Mường Than - P. Kim Tân - TP. Lào Cai, ĐT: 020 3840 070. Giấy đăng ký KHXB: 749-2011/CXB/18-119/VH. In xong và nộp lưu chiểu tháng 9 năm 2011.
Nguồn thơ: duongtamkha.com Cập nhật ngày 05 tháng 9 năm 2011
Để lại một bình luận