Thương người chưa gặp

120.000đ

Kỷ niệm

 

Một chiều hẹn gặp em lối ngõ

Triền sông Cầu gió lộng mênh mang

Em hững hờ ngực khuy quên bỏ ngỏ

Anh ngỡ ngàng bối rối lạc trong mơ

 

Từ ngày hôm nào những gì không nhớ nữa

Lời yêu đầu mở lối anh sang

Ừ lối gặp! Chẳng thể quên lối gặp

Con tim ơi chớ đập rộn ràng!

 

Mùa trăng non tuổi em mười bảy

Nụ hôn đầu còn nhớ không em?

Hương hoa sữa thơm đường em đi học

Anh quên mình đến lớp giảng bài!

 

Tiếng cười hồn nhiên em gọi “Anh thầy”,

Căn phòng riêng và vầng trăng làm chứng

Bao năm rồi tình như giấc mộng,

Trời hỡi làm sao thấu được nỗi này!

 

Tuổi học trò và tình yêu thơ ngây

Mùa thi đến để phượng hồng sắc đỏ

Làn môi em đoá hoa tình thắm nở

Kỷ niệm tình đầu tha thiết nơi đây!

                                    10/5/2011

 

Dâng tặng

 

Làm sao em thấu hiểu tình anh

Những bài thơ nỗi niềm chắp cánh

Bầu trời thu vẫn ngời biếc màu xanh

Mây vần vũ che mờ mộng điệp

 

Thời gian ơi... đừng vội trôi nhanh

Em có nghe tiếng bầy chim rộn rã

Hương hoa thơm ngát vườn cỏ lạ

Sợi tơ lòng vương vấn người qua

 

Nhịp em đi thương dịu gót đồng trinh

Anh ngẩn ngơ hồn theo ngọn gió

Bóng tối u mê sao khuya ngời sáng

Bao kẻ si tình cuồng nộ hờn ghen

 

Ta dìu nhau thảm biếc dịu êm

Chan chứa cả hồn yêu dâng tặng

Tiếng suối reo vang đêm dài thanh vắng

Tha thiết tình đầu hai tiếng yêu em.

                      14/5/2011

 

 

Sen mộng

 

Chưa một lần thuyền anh dạo giữa đầm sen

Cuống sen già chưa làm tay mềm đau rát

Hè đổ lửa nhuốm tóc vàng khét nắng

Lá sen đưa hương mộng điệp thần tiên.

 

Thuyền lặng trôi đêm nhớ trăng nghiêng

Đuốc đèn hoa chập chờn thổn thức

Bến hẹn hồn mê bao lần tỉnh giấc

Sương đầm đìa cỏ mát dịu êm.

                        10/5/2011

 

 

Nhớ

 

Cây lá vườn em mầm lộc ươm xanh

Cơn mưa hạ nắng ngời đón đợi

Khắc giờ biệt ly héo mòn sầu tủi

Mắt lá dâng đầy nỗi nhớ tình anh.

                        13/5/2011

 

 

Sông Hương

 

Anh thả xuống dòng thơm khối tình băng tuyết

Sóng hát ru bao khúc nhạc êm

Cả rừng hoa thu bồi hồi ngọn gió

Nơi thượng nguồn hương ngát toả triều lên.

                        07/5/2011

 

 

Gửi... (I)

 

Có khi nào làn môi em trào dâng

Bao ánh mắt thiết tha trìu mến

Ngàn ánh bạc trăng dát đường làng

Nghe xao động nhịp chèo khua về bến.

 

Có khi nào em thổn thức trong lòng

Nơi thượng nguồn sông Hồng dào dạt sóng

Xa tận chân trời hoàng hôn biển hát

Rặng phi lao cồn cát mênh mông.

 

Gió đêm này ào ạt gieo cơn

Buồm mải miết đèn lên ráng đỏ

Niềm vui ánh nắng pha lê ngời tỏ

Da diết niềm thương xao xuyến chiều buông.

                        12/5/2011

 

Mong chờ

 

Bao giờ em đến chốn này

Tay vun áo gió đong đầy nhớ nhung

Trời cao trăng rót lòng thung

Bước chân xao động lá rung sương đầm

Rừng xanh rộn tiếng chim ngân

Nhịp tim hay nhịp thời gian mong chờ.

                        22/5/2011

 

 

Mùa xuân

 

Những nụ hoa hẹn hò khoe hương đua sắc

Tóc mây, ngực nõn, làn môi, ánh mắt

Tuổi yêu em dạo vườn xuân mộng

Trang thơ anh say men tình ngây ngất.

                        22/5/2011

 

 

Mộng tàn

 

Đường biếc mùa trăng bóng núi gần

Thềm đá bâng khuâng dạo bước chân

Xóm làng hương sắc xanh triền cỏ

Sương gieo gió lạc tiết ngày xuân

 

Ta nhớ về em thuở tình xa

Từng nẻo thân thương chốn quê nhà

Nét cười e lệ duyên thầm nói

Nào ngờ li biệt nỡ phôi pha

 

Cô lẻ bao ngày em biết không

Bẽ bàng duyên muộn hận ngàn năm

Từng mùa trăng nhớ mùa trăng cũ

Người vội quên ta mộng tàn xuân.

                        30/3/2011

 

 

Đêm xuân

 

Ngày ấy đôi ta tuổi xuân thì

Bờ sông vai sánh kề bên nhau

Em làm hoàng hậu anh thi sĩ

Thơ tình anh viết chẳng cạn dòng

 

Tiếng chim vườn biếc vọng tầng không

Ru hồn sóng nhẹ gợn hồ xanh

Làn suối tóc mây hoa bướm đậu

Tình anh nụ thắm dâng gió lành

 

Đêm ấy trăng thanh lời yêu anh

Dáng hình nhung lụa gợi bao tình

Mùi hương ân ái lên huyền ảo

Ngọc ngà ngời hiện mộng tuyết trinh.

                        27/5/2011

 

Chợ nổi

                  Làn điệu Quan họ Bắc Ninth

 

Còn duyên kẻ bán người mua

Em về chợ nổi muộn chưa anh chờ?

Hàng cau, hàng cá, hàng dừa

Đầy thuyền hoa trái, đó lờ, giỏ nơm

Đói lòng củ ấu thay cơm

Bẹo hàng muộn chợ còn hơn muộn chồng.

                        29/5/2011

*Bẹo hàng: Lối tiếp thị treo hàng đầu thuyền mời khách

 

 

 

Tình em

 

Lời em xe chỉ luồn kim

Thiếu phụ mùa đông đợi chồng

Sương khuya ướt đầm vạt áo

Trăng mờ gối chiếc phòng không

 

Biên cương sông Hồng xa xăm

Thương em một mình thổn thức

Hương em lửa tình rạo rực

Mộng ngày xum họp tình xuân.

                        30/5/2011

 

 

Nguyện cầu

 

Ta cầu xin em lời con chiên ngoan đạo

Ban cho anh mộng ước một tình yêu

Đôi tay thần tiên, ánh mắt dịu hiền

Em gieo phước cho hồn anh nhận được

 

Ta khát khao đôi bờ ngát cỏ hoa

Từng bước dạo làn dư hương phảng phất

Mỗi chiều tà, những lúc trăng xa

Đêm gối ủ tình em dào dạt

 

Ôi bùa mê quyến linh hồn phiêu bạt

Chẳng có khi nào anh nguôi nhớ hình em

Hương hoa mộng niềm yêu thương ngời rạng

Thầm gọi tên em tha thiết từng đêm.

                        31/5/2011

 

 

Mộng ước

 

Ước mộng tình mình mãi được kề bên

Bờ cỏ mềm, hàng thông xanh, liễu rủ

Kinh thành đèn hoa lối vườn ngự uyển

Anh làm hoàng tử, em nàng tiên...

                        31/5/2011

 

 

Một chuyện tình

 

“Em sẽ đón anh chuyến tàu cuối sân ga”

Lời hò hẹn đinh ninh chàng trai nhớ rõ

Từng phút âu lo khắc khoải đợi chờ

Chàng trai sợ nhận nhầm cô gái khác

 

Có hai người yêu nhau chưa từng gặp mặt

Lần đầu gặp nhau đêm tối đầy bão giông

Người con gái choàng khăn để lộ đôi con mắt

Chiếc ô che vừa kín bờ vai

 

Tìm đến bên nàng bóng một chàng trai

Chừng vội vã quên mưa đầm mái tóc

Những tiếng thì thầm khoác vai sánh bước

Họ dìu nhau đi trong nắng ban mai.

                        01/6/2011

 

 

Tình yêu

 

Khát vọng ngàn năm là rừng, là đá

Là cánh chim bằng, biển cả, đồi hoa

Giấc mộng đi về thương người phương lạ

Trao nụ hương tình trinh nữ quyến hồn ta.

                        11/6/2011

 

 

Tình đơn phương

 

Anh đã yêu tình yêu đơn phương

Cơn mộng mị nghiệp đời thi sĩ

Bao hờn ghen, đam mê, thất vọng

Người ở trời xa người thấu hay chăng?

 

Mùa nụ xanh, mùa hoa nở, mùa đi

Như mật đắng làn môi em dịu ngọt

Tình yêu anh đất trời dào dạt

Giấu vùi cả gió trăng ghềnh thác

 

Nàng hãy yêu ta vì cả cuộc đời

Khi mùa xuân cất lời yêu gọi

Khúc tình ca mênh mang vời vợi

Nắng đã ngời lên ngọn Phanxipan.

                        Sa Pa, 02/6/2011

 

Mùa tím

 

Anh tìm về mùa tím sông Hương

Nhớ cánh hoa sen đồi sim ngời sáng

Thương Huế buồn đường khuya lẻ bóng

Mộng thơ Hàn trăng Vĩ Dạ rưng rưng

                        08/6/2011

 

 

Tiếng chim

 

Xóm nhỏ, rừng hoang trải dọc triền sông

Nửa vầng trăng úa

Tre làng rủ bóng

 

Không gian lặng chìm

Tiếng chim sáng nay ngừng hót

Cánh đồng mùa gặt đã tàn

Nường đồi cằn khô, xơ xác

Đâu hắt hiu làn khói ấm

 

Đêm qua chú chim trong lồng vừa chết

Chiếc mỏ khô lộn ngược

Lũ trẻ nẫu buồn, câm lặng

Chôn xác chú chim như một đám tang

Chôn cả lời ru non nước

 

Ngủ ngoan nghe chim

Từ hư không....

Lời chim vang vọng

                        03/6/2011

 

 

Cánh đồng tháng ba

 

Cánh đồng tháng ba

Mùa gieo trồng nắng hạ

 

Dòng sông Hồng

Dòng Mê Kông

Thác Bản Giốc

Thác Tây Nguyên

Đất cằn khô hạn

Muôn loài thuỷ sinh cạn kiệt

 

Những con rái cá rủ buồn

Ngước ngược dải Ngân Hà

Hỏi: Nước....?!...

                        01/6/2011

 

 

Viếng mộ

                Thương tặng...

 

Sao đành ly biệt trinh nữ ơi

Mồ em hoa trắng rụng tơi bời

Đìu hiu gió lạnh sương thu ấp

Cuối trời trăng khuyết chiếc thân côi

                        28/5/2011

 

 

Ngắm tranh

 

Ngọc sáng gương trong dậy sóng tâm hồn

Ruộng đồng dòng sông làng quê bình dị

Niềm yêu thương xót xa trần thế

Giọt lệ đêm trường nặng tình nước non.

                        28/7/2010

 

 

Thương em

 

Phận em cánh mỏng lá bèo

Sóng bừng cuộn đổ gió theo đêm hè

Lưng đèo, quán dốc, bờ tre

Bóng đâu em cũng nghiêng về bên anh

Khi mưa nắng, lúc tàn canh

Phố đông côi cút thương anh một mình

Tình ơi! Ai thấu chăng tình

Mênh mông biển cả, lênh đênh kiếp người.

                        06/6/2011

 

 

Thương nhớ

 

Em mỏi mòn, đợi chờ, đơn côi

Anh ở phương xa cách ngăn sông núi

Sao Hôm, sao Mai hai miền vời vợi

Chung một khoảng trời thương nhớ đầy vơi.

                        08/6/2011

 

 

Hoa dã quỳ

 

Em lộng lẫy bên sắc vàng rừng hoa

Trời Đà Lạt chói chang vàng rực rỡ

 

Hoàng hôn mênh mang lẻ bạn

Thầm thì lời hoa dã quỳ

 

Trinh nguyên e ấp nụ tình

Ban mai mỏi mòn sương trắng

 

Mong manh hương gió hương trăng

Tình em dã quỳ ngỏ lời ngọt đắng.

                        11/6/2011

 

 

Hoạ hoa sen

 

Từng giọt long lanh, sương đầm nón lá

Nhụy hương vàng cánh trắng hồng tươi

Người thơ dạo gót sen bến lạ

Gương mặt nàng thôn nữ ấp kề hoa

                        13/6/2011

 

Ếch và Sên

 

Hoàng tử Ếch

Giương đôi mắt tròn

Nhìn tầng búp non

- Được!!!...Được...!!!

 

Bầy ốc sên

Bằng mồm leo ngược

Chễm chệ thiên đường

- Yến tiệc..!!!...

 

Ếch không có râu

Ếch chết tại miệng

Sên không có chân

Tài trèo cao, ăn sung, mặc sướng!

                        10/6/2011

 

 

Yêu em

 

Ta si mê nàng từ tiếng hát véo von

Lời ngọc ngà ru môi son hé nụ

Ta khát thèm ánh mắt trong tựa ngọc

Làn da trắng hồng tựa cánh hoa sen

 

Nàng ngự tim ta mỗi độ trăng lên

Con sóng thuỷ triều ban mai én liệng

Mỗi chiều tà hoàng hôn rạng rỡ

Biển thì thầm hai tiếng yêu em

 

Vì quá yêu ta hát lời giã biệt

Để ngàn năm còn mãi khúc tình ca

Sông Ngân Hà muôn đời ngưỡng vọng

Những nồng nàn tha thiết tháng ba.

                        20/6/2011

 

 

Khát vọng (I)

 

Rồi thời gian sẽ xoá nhoà dĩ vãng

Tình yêu như sông cạn nắng đầy

Cả vầng mây huy hoàng lộng lẫy

Sẽ chẳng còn mãi mãi riêng em

 

Nếu một ngày kia thời gian trở lại

Những nụ hoa nở kín mặt hồ

Những cánh tay ngà búp thon thơm nhỏ

Nghẹn ngào dâng chan chứa tình anh

 

Biển cát mịn màng mỗi buổi ban mai

In hình bóng đôi bờ vai sánh bước

Ánh mắt nàng làm sao tôi quên được

Nụ môi hồng thơm mãi một đài sen

 

Đường phố, non đồi, biển cả và em

Vẫn thì thầm lời yêu lên tiếng gọi

Hãy hé nụ tình yêu ta mong đợi

Những nồng nàn khát vọng thần tiên.

                        18/6/2011

 

 

Chiều

 

Ánh nắng chiều hôm dần mờ tắt

Vầng mây u ám vội thay màu

Dòng sông nhạt nhoà làn sóng nước

Lòng nghe rờn rợn nỗi thương đau

 

Năm tháng sang mùa hoa rụng rơi

Chiếc lá run cành gió chơi vơi

Cửa sổ bầy chim không về đậu

Một mùa xuân nữa hững hờ trôi

 

Em đã quên tôi, ly biệt tôi

Ai biết nào duyên số tại trời

Thơ ơi xin gửi dòng dư lệ

Cho kẻ xưa sau mãi hận lời./.

                        19/3/2011

 

 

 Tình đầu

 

Ngày yêu em phượng hồng chớm nở

Mây hững hờ cành lá nhẹ đưa

Tà áo trắng làn môi hé nụ

Anh đắm nhìn ánh mắt mộng mơ

 

Đêm ấy bên hồ trăng sáng đường thơ

Thơm mùi hương tóc gió ngẩn ngơ

Con tim anh sắp chừng rạn vỡ

Lối cỏ hoa mềm bước chân êm

 

Hẹn ước hôm nào đâu dễ nguôi quên

Mùa hạ cháy lên màu nhung nhớ

Cảnh cũ người xưa bẽ bàng kỷ niệm

Xa xót tình đầu hai tiếng yêu em./.

                        23/3/2011

 

 

Gọi em lần cuối

 

Thôi em về đi

Em cứ đi...

Đường trăng hoa rụng nẻo từ ly

Ô kìa, trăng lạnh như băng tuyết

Mỗi bước xa dần bóng sầu bi

 

Từ ấy ta về hận tình đau

Lối nhỏ đường quen chẳng còn nhau

Lời hẹn duyên xưa... nào ước hẹn!

Mối sầu nhân thế có ngờ đâu?!

 

Ai nỡ chia phai sắc màu xuân

Kết vòng hoa trắng trắng màu tang

Thôi nhớ mà chi đôi mắt biếc

Cả tiếng cười em cả đường làng

 

Bia mộ ái tình lạnh khói nhang

Anh tìm gom nhặt chiếc lá vàng

Thầm gọi tên em một lần cuối

Ngậm ngùi chua xót cuộc tình tan./.

                        20/3/2011

 

 

Chùm thơ Phong Nha Kẻ Bàng

 

I/Sông Son

 

Mặt sông vỡ ruộng cày cha dang dở

Thuyền lặng đau đỏ nước dòng Son

Khe cửa núi sương mờ khép mỏng

Cánh chim trời phiêu dạt hư không./.

                        19/4/2011

 

II/Chiều

 

Chiều nhuộm nắng cành phan cõi Phật

Dòng sông Son sóng cuộn mênh mang

Nghiêng dáng nhỏ thôn nữ mùa gieo hạt

Cánh đồng vàng tan chảy hoàng hôn./.

                        19/4/2011

 

III/Thăm Động

 

Những giọt nước nguồn thăm thẳm rừng sâu

Những giọt nước nguồn nóc trần hang lạnh

Vạn niên kỷ qua, vạn niên kỷ sau

Làm nên kỳ quan thế giới.

Dòng Son thiêng liêng một lần anh tới

Cát lặng, gió reo, sóng hát

Huyền thoại Phật Bà tụng niệm

Cột đá nhà trời tạo dựng

Từng giọt hồn hoang rưng rưng./.

                        23/4/2011

 

IV/Sông Ngân

 

Có những dòng sông

Ai lỡ buông rơi mái chèo

Không người giặt áo chân cầu

Không nỉ non tiếng sáo.

 

Có những dòng sông

Đớn đau suốt một đời

Sóng lòng từng cơn cuộn đổ

Một nửa em neo giữ riêng mình

Bến bờ anh dãi dầu mưa nắng

 

Dòng sông em

Bốn mùa trăng sao dát bạc

Hạt phù sa đơm hoa kết trái

Em tô màu huyền thoại

Gọi tên dòng sông yêu thương.

 

Anh dõi tìm em hình bóng nẻo đường

Nơi bến vắng thuyền ai neo đậu

Chợt giật mình bao đêm tỉnh mộng

Em hiện về vời vợi dải sông Ngân../.

                        24/4/2011

 

V/Tình anh

 

Tình mơ ngỡ ngàng mắt nai

Triền sông sương mờ đủng đỉnh

Nắng tràn bóng in dòng biếc

Xạc xào thu lá vàng bay.

 

Nhung nhớ sang mùa vườn xanh

Chênh vênh một mình đưa võng

Hạ chiều lặng ngồi đón gió

Hàng ghế công viên nổi nênh.

 

Buông hờ tóc mượt trăng thanh

Thầm thì tiếc mòn tuổi ngọc

Non đồi rạng ngời ánh bạc

Đêm này tha thiết tình anh../.

                        25/4/2011

 

 

Biển gọi

          Thân tặng thi sĩ Kim Liên - Tây Ninh

 

Em dịu dàng ban mai sóng biển

Cánh Hải Âu chớp nắng triền non

Một thoáng bâng khuâng hồn anh chan chứa

Đón sắc màu tan chảy hoàng hôn.

 

Thầm thì biển xa tim nghe xao động

Cánh buồm nâu hay bóng hình em

Ơi sóng ơi... trùng trùng sóng vỗ

Sao vội xô dồn cuộn chảy ngày đêm?

 

Tà áo em bay mây tóc vờn nghiêng

Đôi gót nhỏ mờ dần dấu cát

Nắng hồng môi em nét gò bồng đảo

Nắng ngân thành điệu nhạc thần tiên.

 

Vầng mây qua đây nắng nhẹ dịu êm

Từng cánh sóng hồn anh rộng mở

Biển yêu ơi... ban mai rạng rỡ

Hương nhụy sen vàng... Biển gọi tên em./.

                        19/02/2011

 

 

Thương em

 

Thương em mưa nắng bao ngày

Toan lo vất vả đắng cay nhọc nhằn

 

Đất cỗi cằn, cỏ vàng trăng

Cây hoa đơm lộc đằm đằm khát khao

 

Thương em chín cả chiêm bao

Duyên trời bất chợt được vào thăm em

 

Thương vườn lan, thương ngọn đèn

Sớm khuya trở gió ai bên vỗ về

 

Trang thơ em vẫn hằng nghe

Thương em thương cả miền quê sông Vàm./.

                        20/02/2011

 

Cầm bằng

       Làn điệu Ca trù

 

Yêu nhau chẳng được gần nhau

Cầm bằng mộng mị khổ đau một đời

 

Yêu nhau khuất bóng im lời

Cầm bằng hoá đá làm người vọng phu

 

Yêu nhau phiêu bạt xa mù

Cầm bằng sóng dại vỗ bờ đảo hoang

 

Yêu nhau lỡ một cung đàn

Cầm bằng ước muốn gào ngàn thông reo./.

                        21/02/2011

 

 

Đồng dao

Thân tặng Ngô Văn Phú, Nguyễn Phan Hách, Nguyễn Nguyên Bảy, Lý Phương Liên

 

Thủng tha... thủng thẳng...

Hâm hâm... Hâm hâm...

Không thầy, chẳng lớp

Tri ngộ tương phùng

Mấy bạn văn già

Hàng chục đầu sách

Mấy trăm tác phẩm

-"Mày rách?

- Tao còn nát hơn?"

Thủng tha... thủng thẳng...

Hâm hâm... Hâm hâm..../.

                        24/4/2011

 

 

Nam Ninh

 

Biển mây, Đình hồ, Dạ thủy quán

Khách du hoan lạc giữa trần gian

Gái Thái, Mông, Dao hầu bàn trẻ

Thi nhân chua xót cảnh hèn sang../.

                      Quảng Tây - Trung Quốc  02/5/2011

 

 

Về thăm Huế

 

Quá nửa đời người về thăm Huế

Xứ Huế dầm mưa núi trắng mờ

Đếm giọt tàn khuya trăng suông nhạt

Một mình run lạnh lặng đơn côi.

 

Một kiếp đa mang nợ cầm thi

Tràng Tiền định nhịp khúc phân ly

Kinh thành hoa lệ cười hay khóc?

Đắng cay lầu các phận cung phi.

 

Xưa đã cùng em dạo thuyền hoa

Cung đàn hòa điệu giọng xênh ca

Mắt tìm mắt biếc in dòng nước

Ái tình duyên phận nỡ chia xa.

 

Anh mải tìm em chốn xa xôi

Ngự Bình cô lẻ cuộn mây trời

Hình bóng người xưa con thuyền ấy

Dòng Hương nhòa nhạt chiếc thân côi../.

                        30/4/2011

 

 

Thơ cho con

 

Con hãy ngắm sắc hồng những đóa hoa sen

Cha mua tặng con ngày thi vào đại học

Con hãy ngắm ngôi nhà con đang ở

Mừng gia đình con tổ ấm vững bền

 

Sự bắt đầu từ ngọn lửa tâm hồn

Bốn mươi năm làm thơ hằng ấp ủ

Mặc thời gian vàng phai mòn dũa

Vần thơ cha nào còn gì quý hơn

 

Bông sen, căn nhà tình yêu con đó

Vũ trụ này ánh sáng hồi sinh

Ngày mỗi ngày bình minh rạng rỡ

Ngàn trùng xa sóng vỗ ân tình./.

                         05/5/2011

 

 

Khao khát tháng ba

 

Khao khát một lần về thăm đồi gió

Cửa son Tháp Chàm đợi khách

Tiên nữ múa điệu Phượng hoàng

Xốn xang sen đồng hương toả

 

Đất nồng men ủ ngàn năm

Làng gốm khung cửi tầm tang

Đêm trăng dệt thêu tình sử

Giọt sữa, nhũ hoa...

Nước mắt Chế Bồng Nga, Huyền Trân Công chúa

Sông hay trăng mà nguồn thơ dào dạt.

 

Cuộc tình nào Mộng Cầm, Hàn Mạc Tử đi qua

Dầu đớn đau không giết được người trong mộng

Vầng trăng đêm nhuốm hồng sắc máu

Anh ngẩn ngơ tìm nửa vầng trăng đêm ba mươi

 

Một nửa vầng trăng kẻ Nam người Bắc

Sương trắng bờ lau ngút ngàn dòng Cái

Tháng ba này rét có lạnh nàng Bân./.

                        09/4/2011

* Dòng Cái: Hay sông Cái - tức sông Hồng.

 

 

Chàng lười

          - Làn điệu dân ca H’Mông

            “nói thế cho nó vui !”- Nguyễn Phan Hách

 

Chàng lười

Đêm trăng

Khèn cài lưng khăn

Ê...a... lời ngàn năm cũ rích

 

Chàng lười

Phát nương trồng lúa

Ném hạt vào vách đá

Lọt hang con don, cái dúi

 

Chàng lười

Nhặt nấm, hái măng

Chờ gió lớn tre non ngã gục

Nắng lên

Đường trơn lối tạnh

Chàng lười

Bắt cá sông, tôm suối

Cá vờn đẻ giữa hai đùi

Tôm cặp gọi mẹ

Nhờ người cứu giúp

 

Chàng lười

Thèm uống, thèm ăn

Đợi ngày... mong đêm...

Làng mở hội

Xếp bằng mòn cột

 

Chàng lười

Làm bậc cầu thang

Chọn cành mọt cưa, mối đục

Chờ chực

Vợ bế lên giường nằm ngủ./.

                        10/4/2011

 

 

Lời ru

 

Nặng lòng hai chữ tình yêu

Con tim trăn trở sớm chiều vì em

 

Khi nửa ngày, lúc tàn đêm

Phận hoa cánh mỏng càng thêm mỏi mòn

 

Suối tóc dài, làn môi thơm

Hàng mi thương dịu chập chờn cơn mê

 

Cõi đời mưa gió não nề

Xanh trong mắt ngọc vỗ về lời ru./.

                        25/02/2011

 

 

Cỏ

 

Bông hoa mùa xuân anh chưa kịp hái

Dấu cỏ vườn xanh dâng đầy nhung nhớ

Tuổi yêu chan chứa vòng tay

Tháng ngày giêng hai cỏ may vương làn tóc rối./.

                        25/02/2011

 

 

Tình sử

 

Điều thầm kín trong tâm hồn em, giữa buồng tim anh

Một đời trần thế ước mộng duyên lành

Nơi xa xăm muôn vì sao xanh hẹn lối

Nâng cánh ta bay lạc chốn thiên đường.

 

Thoang thoảng đâu đây dịu ngọt làn hương

Cuộc truy hoan tận cùng cảm xúc

Làn gió ngất ngây, sóng xô bờ cát

Huyền diệu đất trời muôn lớp trùng dương.

 

Đây dải Ngân Hà cầu Ô Thước ta qua

Ngàn sao sáng rung trên vòm lá

Người ngọc trần gian thướt tha tiên giới

Gửi trao lời tình sử gọi Hằng Nga./.

                        26/02/2011

 

 

Lời hát từ đồi thảo quả

          Làn điệu dân ca Dao

 

Ơ này... con đường rừng quên ngủ

Ơ này... hàng cây thảo quả hát ru

 

Anh từ đỉnh núi cao đã tới

Anh như dòng suối mát tràn về

 

Nương đồi vườn em biếc xanh

Cơn gió thơm hương ngọt lành

 

Khăn lưng em ấm vòng tay anh

Làn gió mơn man da em ngần trắng

 

Anh chìm vào bồng bềnh suối tóc

Say hơi ấm nồng nàn vầng ngực miên man

 

Mùa xuân này bầy chim ríu ran

Tiếng khèn nỉ non sóng váy

 

Cánh rừng này của đôi ta từ đây

Bản mường cho ta tình yêu gắn bó./.

                        08/3/2011

 

 

Nàng Bân

          Thân tặng nhạc sĩ Lý Dũng Liêm, thi sĩ Kim Liên - Tây Ninh

                                                                         - Tác giả bài hát: Tháng ba của em

 

Những nàng tiên hát

Đêm trăng huyền thoại

Thuyền hoa trăng neo bến mộng.

Anh mơ làm làn sóng

Mơn man dập dờn ánh biếc.

Những nàng tiên ngồi dệt áo

Bên dòng sông Ngân

Cầu Ô Thước lung linh muôn vì sao đậu.

Anh mơ làm con suối

Thơm ngón tay thơm

Nồng nàn yêu thương dào dạt.

Một ngày em trao tấm áo

Hương tình rạo rực xốn xang

Một đời cuồng vọng khát khao

Yêu em... Yêu em... Tháng ba

                         những nàng tiên hát./.

                        28/3/2011

 

 

Đêm mộng

 

Đêm từng đêm

Chập chờn cơn mê

Trăng khuya đẩy cửa

Trăng hay bóng em...?!...

 

Mắt em cong vành trăng lược

Làn môi thắm đỏ

Chân êm lối cỏ

Tường vi cành mềm hé nụ

Những đoá hoa lê

Hương thơm nhũ non ngần trắng

Muôn vì sao lung linh

Sông Vàm sóng vờn dịu êm.

 

Đêm mộng thần tiên

Thuyền Trương Chi đậu

Tiếng sáo nỉ non

Trăng thanh bến vắng./.

                        29/3/2011

 

 

Chọn lựa

 

Giăng Bắc, giăng Nam

Chọn gái Ba Trăng làm vợ

Mía đỏ mía xanh

Lựa anh Kẻ Mía làm chồng./.

                        22/3/2011

* Kẻ Mía, Ba Trăng - tỉnh Sơn Tây cũ - nay thuộc

Hà Nội: Địa danh nổi tiếng trai tài, gái sắc.

 

 

Ru lời diêu bông

 

Bồng bồng... ru lời diêu bông

Chắp vần bến đợi mà không có đò

 

Đò xưa năm cũ gối bờ

Ba năm mẹ khấn vong thờ mẹ đi

 

... Gió đánh cành tre

Gió đẩy cành tre...

Lược ngà mẹ chải...

...buồng the má hồng

 

Qua mùa đông lạnh sang xuân

Trái thơm mật ngọt ngang tầm tay ai...?!...

                        30/01/2011

 

 

Nhớ sông Hương

Thân tặng thi sĩ Kim Liên - Tây Ninh

 

Chẳng màng biển dội trời xanh

Xin làm sóng nhẹ dỗ dành bến quê

Làng xưa lối cũ đi về

Cong vành trăng lược triền đê cánh diều

Lặng nghe cỏ hát bao điều

Gối đầu cỏ ấm đắm chiều sông Hương./.

                        25/12/2010

 

 

Huế

 

Bâng khuâng Huế đẹp, Huế mộng mơ

Thuyền về nắng gió lộng đôi bờ

Sông Hương câu ví xanh triền cỏ

Để gã si tình say ngẩn ngơ./.

                        25/12/2010

 

 

Mùa yêu

 

Sen vàng toả ngát, chim níu rừng

Biển mây phiêu dạt mấy trùng dương

Mùa yêu không hẹn bùa giăng lối

Xuân tình cỏ ấm sợi tơ vương./.

                        26/12/2010

 

 

 

 

Đêm sông Hương

 

Dầu muộn mằn một vạt nắng chiều

Trăng lên sớm soi hoàng thành năm cũ

Thuyền ai nhẹ lướt êm một cánh diều

Sông Hương đằm mình vào đêm mộng

 

Vành mi cong cầu Tràng Tiền muôn vì sao đậu

Có vì sao nào rơi trên cỏ dịu êm

Một mình anh cơn gió thoảng đường quen

Em lộng lẫy nét ảnh hình huyền diệu

 

Trăng vỡ rồi em! Thuyền ơi mau về bến

Ngàn trùng xa sóng vỗ triều lên./.

                        28/12/2010

 

 

Gửi... (II)

 

Nỗi nhớ thương em dặc dài đầu nguồn sông Chảy

Tiếng sóng sông Hồng ngân dài tiếng sáo Trương Chi

Bờ cát mộng, dấu chân nàng Tiên Dung gặp chàng Đồng Tử

Đôi bờ sông Vàm Cỏ

Trải một màu xanh xanh rất xanh

Muôn ngàn vì sao lung linh dòng Ngân Hà mờ tỏ.         

***

Năm tháng chưa qua, lời yêu đầu đã ngỏ

Đêm từng đêm con tim anh trăn trở

Biết đến bao giờ đàn chim từ nơi anh bay về phương Nam

Phan xi păng trắng trời tuyết lạnh.

***

Sẽ chẳng khi nào anh nguôi nhớ màu xanh

Con tim nhỏ mà đất trời rộng quá

Em bên anh đêm Liêu Trai mộng ảo

Đau đớn duyên tình - hạnh phúc có mong manh ?!?!

                        07/01/2011

 

 

Nhớ em

 

Phương em mùa này nắng độ vàng

Cỏ mềm hương dịu ngát vườn xuân

Có tiếng chim ngân bên dòng vắng

Ngập ngừng sương giọt dấu bàn chân

 

Lối ngõ nhà em cách tường ngăn

Có con bướm trắng vẫn thường sang

Vầng lá non tơ mây vương nhẹ

Ước lần hẹn gặp ghé vào thăm

 

Ngày ấy em vừa độ thanh tân

Ngực non má thắm mắt trong ngần

Duyên phận trái ngang xa biền biệt

Thẹn thùng sao hai tiếng yêu em

 

Ngày ấy bên nhau mộng thật hiền

Triền cỏ còn đây dấu chân quen

Năm đợi mười chờ em không đến

Trằn trọc khuya rồi đêm từng đêm

 

Chẳng biết khi nào anh gặp lại em

Cho lòng chua xót đớn đau thêm

Người xa xa tiếng xa hình bóng

Có thấu tình anh bấy nỗi niềm./.

                        09/11/2011

 

 

Tình thư

          Thân tặng thi sĩ Kim Liên

 

Một mảnh hồn hoang nửa đời phiêu dạt

Thoáng mơ hồ lối cỏ đìu hiu

Cạn dư ba xót xa nguồn cội

Dòng Nậm Thi buồn mờ xám bờ lau.

 

Không gian lặng tờ nhang khói phụng thờ

Đền Trần uy nghi vọng lời gió gọi

Mảnh trăng làng ngàn xưa chờ đợi

Hồ sen vàng ai khéo đặt Kim Liên

 

Bao đêm trường khao khát gặp mơ em

Gót chân tiên em lên Lào Cai ngày đó

Con đường nhỏ mái chèo khua sóng vỗ

Sông Mã quê mình ai nhớ ai quên?

 

Du khách xa du khách đã xa rồi

Người thơ ơi cô lẻ một anh thôi

Biết thưở  nào gặp em nơi bến mộng

Tình thư anh xao xuyến mấy phương trời.

                        08/12/2010

 

 

Tri kỷ

 

Nhớ chuyện Bạch ông* với Tản Đà

Xuống tàu lênh đênh bốn biển xa

Nếp nhà cỏ rau thơm vị ngọt

Rượu hoà nước mắt đọng hồn ta./.

                            Mùng 5 Tết Tân Mão

* Bạch ông: Bạch Thái Bưởi - doanh nhân số 1 Việt Nam, hiện có đền thờ tại cảng Bạch Thái Bưởi - Quảng Ninh.

 

 

Vô Đề

 

Nhà ngăn tường đá căn lều nhỏ

Đá, cỏ, người vẫn kiếp phù sinh

Bốn cõi mênh mông đời bể khổ

Lời kinh cầu lạnh cõi u linh./.

                        11/4/2008

 

 

Yêu em

 

Vẫn lặng thầm đá xanh bờ cát

Vẫn lặng thầm rêu cỏ phong sương

Vẫn lặng thầm sóng dâng ghềnh thác

Những nụ hôn tha thiết dịu êm.

                                    ***

Con tim nhớ về nhau hằng biết

Canh cánh bên lòng khắc khoải chờ mong

Muốn được là gió mây biền biệt

Muôn trùng lớp sóng vỗ về em.

                                    ***

Nặng tình thương yêu ánh mắt đầu tiên

Con tim anh suốt một đời ngoan đạo

Dầu đớn đau trước cuồng phong dông bão

Chúa lòng thành nương độ đứa con chiên./.

                        16/01/2011

 

 

Thôi đành

 

Em giờ là của người ta

Vọng nghe lời hát xót xa... não nề...

Bể trần chín khúc ruột đê

Sắc vàng hoa cải biết về nơi đâu?

Một dòng là mấy nông sâu

Con thuyền bé nhỏ ván sầu long đinh

Thôi đành tạ tội mái đình

Nỗi mình lẻ bóng phận mình chênh chao./.

                        17/01/2011

 

 

Bi khúc

 

Mùa đông...

Bão dông

Đắm thuyền

Bờ trắng khăn tang

Ôi... xác hồn phiêu dạt...

***

Mùa đông...

Nến nhang thắp đỏ nghĩa trang

Mẹ già mỏi mòn

Mồ con xa xăm...

***

Mùa đông...

Đàn trâu gầy ngã gục

Ngẩn ngơ lũ trẻ

...cày đồng... hi vọng...?!?!...

                        18/01/2011

 

 

Đừng gọi tên anh

 

Hơi ấm

Dâng nỗi niềm bâng khuâng

Ly rượu này... mời khách

Tay ngà nhẹ nâng...

        ***

Có lẽ nào

Khước từ

Mắt lặng nhìn

Bối rối

Tình này...

Chứa chan...

        ***

Chợt thoảng đâu đây

Lời hát

Cỏ hương lan chiều

Ngất ngây...

Nắng thông reo

Tường Vi bóng ngày hút gió...

        ***

Tình ơi

Dở dang, cách trở

Nắng úa sau lưng

Tóc em... hình như xanh đỏ...

       ***

Ánh nhìn em

Mỏi mòn ngoảnh lại

Đường xa mờ hương

Chiều tàn mờ phai

Từ đây...

Một đời đơn côi...

Đòi đoạn từng ngày...

Linh hồn phiêu dạt...

Chia cắt...

Tàn phai.../.

                        24/01/2011

 

 

Lên Tam Đảo

            Thân tặng Nguyễn Khôi, Anh Tuấn

Lên Tam Đảo chẳng có nhà bình dân

Tìm đâu chốn chiếc thân nương tựa

Những vuông hộp xi măng cao tầng

Vô hồn những con chó đá!

 

Lên Tam Đảo đêm nay ta lang thang

Gặp một nhà văn không vào hội

Hỏi người hay tự hỏi(?!)

Cuối trời sắp lặn vú trăng.

 

Vú trăng gian díu bóng tối cánh rừng

Thuỷ Tinh nghẹn ngào, uất hận

Xót xa máu xương nghĩa binh chiến trận

Tam Đảo! Người lộng hành Tề Vương...!...

                        07/5/2011

 

 

Tụng kinh thành Thăng Long

 

Giữa kinh thành Thăng Long

Ba vái con lạy thầy Nguyễn Đình Chiểu

Đêm nay trăng sáng

Thuyền đạo thầy chở có đầy?

Bút thần còn say máu giặc?

 

Giữa thanh thiên bạch nhật

Ba vái con lạy thầy Nguyễn Văn Siêu

Đôi vầng nhật nguyệt

Rùa vàng linh thiêng độ trì dân nước.

 

Giữa kinh thành Thăng Long

Ba vái con lạy Đông - Tây - Nam - Bắc

Lạy Côn Sơn, Kiếp Bạc

 Lạy Bạch Đằng, Đống Đa

Lạy Phật Ông, Phật Bà

Lạy Đền Đô, Đền Gióng

Lạy Yên Tử, Chi Lăng

Lạy Chùa Hương, Bái Đính

Lạy Núi Tản, Núi Nùng

Lạy Nghi Xuân, Đồng Lộc

Lạy Quảng Trị, Trường Sơn...

 

Nam mô a di đà phật...

Nam mô a di đà phật...

                        07/5/2011

 

 

Nỗi niềm

 

Biền biệt mùa đi thu đông xuân hạ

Màn sương giăng khung cửa nhạt nhoà

Căn phòng rộng chiếu giường trống vắng

Nhạc Trịnh khơi nguồn thương nhớ người xa.

 

Một mình anh hoang hoải vườn nhà

Ngày gió lộng sương chiều quay quắt

Ngọc lan buồn héo sầu chiếc lá

Từng cánh buồn giọt trắng thu già.

Vọng cuối bờ sông tàu gọi sân ga

Xao động phố đêm nhịp đời lên vội

Vuông cửa sổ hai bóng người tình tự

Trao nụ hôn đầu sau bức rèm xanh.

 

Nỗi niềm cô đơn riêng phận mình anh

Tàn khói thuốc mòn đêm hiu quạnh

Nhớ thuở yêu xưa tình nồng cuồng vọng

Cánh bướm vờn quanh hoa thắm đầu cành.

                        06/5/2011

 

 

Khát vọng (II)

 

Anh muốn được cùng em bồng bềnh sóng biếc

Cát vàng quê hương thương dấu chân êm

In dáng ngọc mây trời màu ngũ sắc

Biển hát thầm thì giai điệu thần tiên.

 

Rộng dài anh qua dãy núi trăm miền

Muôn thác đổ tơ trời huyền diệu

Anh gội tóc em suối nguồn tinh khiết

Hái cài lên em những đoá thơm bông.

 

Anh sẽ dìu em qua những dòng sông

Cầu thả bóng thướt tha tà áo tím

Phía bên kia miệt vườn mướt lá

Anh đắm say nồng nàn môi em.

 

Bầu trời mùa thu xanh biếc vì sao đêm

Anh chọn những vì sao lung linh trong ánh mắt

Anh giấu vào đáy tim giữ gìn kỷ niệm

Tự buổi đầu cất tiếng yêu em

                        09/5/2011

 

 

Vô đề

 

Sống một đời lỗi đạo

Chết phách hồn không thăng

Mười phương vái quỳ Phật pháp

Đọa đày địa ngục chín tầng../.

                        08/5/2011

 

 

Phan xi păng

 

Phan xi păng thầm gọi tên em

Bờ gió lộng khe ghềnh thác đá

Buồn quạnh hiu núi một mình cô lẻ

Rụng bàn tay hóa tuyết lạnh trời xa../.

                        01/07/2011

 

 

Ru tình

 

Anh không thể tin gặp em là hết nhớ

Mà chẳng tin tim đã chết vì yêu

Bao đêm dài đêm lại nối đêm

Trang nhật kí dày thêm kỷ niệm

Vẫn âm thầm ru em tình ảo mộng

Giọt sương chưa nắng đọng lung linh

Nhịp tim anh phương trời vời vợi

Em hiện về mây thắp bình minh../.

                        26/6/2011

 

 

Rắn

 

Một đời nương nhờ bờ ruộng cỏ

Đôi lần leo vút ngọn tầng cây

Người bắt dần xương moi tim mật

Hương đồng phố chợ mặc tình say../.

                        02/7/2011

 

 

Nhớ

 

Cạn dòng mắt lạnh mùa thu

Sương khuya chân mòn phố núi

Trăng sao hững hờ đường vắng

Bóng hình em nhớ tình xưa../.

                        01/7/2011

 

 

Gửi Trường Sa

 

Nắng nồng ngút ngàn hoang mạc

Dấu chân khuất dần bờ cát

Cô đơn xương rồng trầm lặng

Hoa vàng lưu luyến người đi.

 

Hanh hao Tuy Hòa mùa hạ

Giọt hồng sương đọng lung linh

Miền Trung tháng ba dậy sóng

Thương người biển đảo Trường Sa./.

                        03/7/2011

 

 

Chờ em

 

Anh viết bài thơ không kịp đợi vần

Con tim anh sắp chừng rạn vỡ

Một nửa chờ phương em đang tới

Anh cài khóa cửa buồng tim

Màn đêm xuống lửa tình rực cháy./.

                        23/01/2011

 

 

Đêm rượu cần ở bản Thái

 

Đèn mờ phố nhỏ rưng rưng

Ngàn sao mây trời vời vợi

Cỏ mềm êm dịu làn sương

Nhịp cầu chênh vênh dòng suối.

Tiếng khèn trăng xa mở lối

Nhà sàn ché rượu chao nghiêng

Lời yêu môi kề mắt khép

Một đời thương nhớ người ơi./.

                        04/7/2011

 

 

Vu vơ

 

Lời vu vơ son tô làn môi thắm

Lời vu vơ nâng dải yếm làm cầu

Đêm bâng khuâng tình tràn gối mộng

Mộng tỉnh rồi để khổ lòng nhau./.

                        03/12/2010

 

 

Sơn nữ

 

Mộng mơ đắm nhìn sương núi

Nắng chiều vạt gió lang thang

Má hồng hoa đào thắm sắc

Sợi tình em dệt mùa trăng./.

                        05/7/2011

 

 

Thăm Đền Hùng

 

Mẹ Âu Cơ trên núi Hùng ngập nắng

Bóng đại ngàn giếng Ngọc trong xanh

Mẹ tắm đàn con những giọt mát thơm

Có hương hoa rừng tỏa dâng ngào ngạt.

 

Một ngày lớn khôn 50 người con đi về phía biển

Chân trời xa Hoàng Sa, Trường Sa

Mẹ nhớ bước con đi gót đỏ hồng son

Tình Mẫu Tử mẹ thương tình Phụ Tử.

 

Bốn ngàn năm này mai sau ngời rạng

Lời tổ tiên đất nước giang sơn

Biển bạc rừng vàng thiêng liêng gấm vóc

Dòng máu Lạc Hồng ấp ủ trái tim con../.

                        Đền Vua Hùng - Phú Thọ 10/3/2010

 

 

Hai nàng tiên

 

Như giọt nước sinh đôi

Như ngực trẻ dâng trào sức sống

Long lanh ánh mắt, má thắm dịu dàng

Như cánh sen làn môi chín mọng.

Chưa một lần anh tới Cà Mau đất mũi

Thì lẽ nào thấu được kiêu sa Núi Ngọc Quảng Ninh

Anh chưa tới Hoàng Sa

Làm sao tỏ tường quyến rũ Đảo Yến, Sơn Ca...

Lý trí hối giục bàn chân anh đi tìm chân lý

Tình yêu anh đắm say, nồng cháy

Hai nàng tiên

Hai nàng tiên giữa trái tim anh là một./.

                        10/7/2011

 

 

Ước mộng

 

Buồn xa sông núi cách ngăn

Đá mòn chờ đợi ngàn năm

Nhìn trăng nhớ thương vời vợi

Ước mộng vỗ cánh chim bằng./.

                        11/7/2011

 

 

Phần II - BÀI HÁT

 

 

Khèn

 

 

Ơi con gà rừng gọi bạn trên nương...

Ơi con suối quanh đồi hoa nở...

Tiếng khèn anh lá rừng xô dạt

Tiếng khèn anh cây cành đơm hoa.

 

Quay! Quay... Tiếng khèn anh như dây quấn rừng

Quay! Quay... Tiếng khèn anh hạt mưa mòn đá

Mặt trời đỏ hồng trên đôi má

Mặt trời chìm nơi gấu váy em.

 

Anh gọi em - gọi vì sao đêm

Anh gọi em - trời sao sáng rực

Anh múa cho ống sáo rẽ rời

Anh múa để lưng khăn rơi xuống đất.

 

Em hỡi em! Ta còn thương còn nhớ

Đêm từng đêm tiếng khèn anh vắt lưng trời./.

                        25/3/2010

 

 

Xuân sớm

 

Hờ ơ... ơ ớ... hờ...

Trời nắng sớm, sương buông chiều

Tìm em nơi xa vời

Con suối biếc, gió ngang trời...

 

Mẹ đưa em lên nương

Mùa vụ mới hoa ban vừa nở trắng

Bạn tình ơi! Cuộc vui tàn rồi

Hương rượu nồng còn vương trên ngực em...

 

Năm ngón tay ngà em hẹn mùa sau

Hội làng vui cầm tay anh ấm nóng

Hạt sương mai lung linh toả sáng

Hay tình em ước hẹn dài lâu...

                                Khai bút, mùng 5 Tết 2002

 

 

Sơn La đêm rượu cần

 

Em dắt anh vào đêm rượu cần

Lắng tình thương hương rừng dịu ngọt

Hạt nếp tan thơm nồng trắng sữa

Sừng trâu cong nghiêng tiếng suối trong.

 

Ngọn lửa ánh hồng rực hoa lên cao

Má em ửng trào ngời tươi xuân sắc

Đôi cánh tay thon dài ngà ngọc

Vai kề vai mái tóc quyện nhau.

 

Làn gió mơn man lời em mời chào

Anh dừng chân bản em nghỉ tạm

Nhà em đơn sơ sàn tre vách nứa

Đêm nay trăng say anh về nơi đâu?

 

Ơi Sơn La! Lời hát ngân nga

Sông Đà hẹn vần thơ chưa cạn

Khúc nhạc hồn ta thì thầm tiếng gọi

Thương nhớ ngàn lần cô gái Thái Sơn La.

                        Bản Bó, 25/7/2002

Đã có video clip Sơn La đêm rượu cần.

 

 

 

Phần III - DƯ LUẬN TÁC PHẨM

 

 

Đọc tác phẩm

Trường ca: Anh hùng Lò Văn Giá(1)

            Mấy chục năm trở lại đây, những tác phẩm trường ca hầu như vắng bóng trong đời sống văn học. Và nếu là trường ca viết về một người anh hùng hoặc về một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn thì càng hiếm người viết động tới và người dọc thì lại càng dửng dưng. Có thể kể ra nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau nhưng không thể không thừa nhận một điều: Cảm hứng về người anh hùng đang nhạt đi trong lòng người viết và cả ở phần đông người đọc sách. Tôi đọc Trường ca của tác giả Dương Tam Kha trong bối cảnh đó. Vì tò mò. Cũng còn vì anh là đồng nghiệp dạy Văn cũ của tôi. Tình yêu đối với thơ ca đến gần như là mê đắm của anh thì tôi đã  biết từ lâu. Anh đã có tới hàng trăm bài thơ tình. Nhưng sau hơn hai chục năm cách biệt, cầm trên tay cuốn sách dày dặn của một nhà xuất bản có uy tín, thì tôi sững sờ. Và tôi còn sững sờ đến kinh ngạc; bởi đằng sau cái tên sách mộc mạc có cái bìa không hấp dẫn là những dòng thơ viết về một anh hùng liệt sỹ người Thái trẻ tuổi trào ra như những dòng nham thạch nóng bỏng. Tôi đọc mà không tin nổi ở mắt mình... Tôi cũng đã có thời, giống như anh, lang thang trên con đường Lò Văn Giá của Thị xã từng được mệnh danh là thị - xã - nhà - sàn, hay thẩn thơ trong Bản Cọ, nơi anh Giá đã sinh ra và lớn lên, nhớ đến những người tù số vuông năm xưa lúc đi cõng gạo từ Tạ Bú về nhà tù, dừng chân ngắm hoàng hôn và những cô gái Thái bên suối...Nhưng từ ấn tượng và cảm xúc tới những hình tượng nghệ thuật được chạm khắc và nung chảy lại là một khoảng cách không thể đo được bằng thước đo thông thường.

            Trước khi viết "Trường ca Anh hùng Lò Văn Giá", thầy giáo dạy văn quê hương Thanh Hóa đã sống mê mải với thiên nhiên Tây Bắc, để hồn mình chìm ngập trong những hình tượng ví von duyên dáng nhiều sắc màu của đồng bào Thái, đã khá thông thạo lịch sử chín châu Thái cùng những truyền thuyết, dã sử được kể lại trong những bản tình ca và những sách sử Thái. Anh viết về một xứ sở - quê hương của người anh hùng như đó chính là quê hương thân thiết của mình:

Đất này

          Đất của hoa ban

Hoa ban nở

          Con ong rừng lạc lối

Con ong rừng

          Rung cánh hoa rơi

Để phấn hương thơm

          Rối lòng lứa đôi hò hẹn

Tiếng khèn vuốt mềm làn gió lan xa

Chiều nắng đẹp đỏ nghiêng triền dốc

Xanh biếc ánh trăng

          Một suối tóc mây

Cô gái Thái

          Giấu ánh nhìn đỉnh núi

 

Chiếc piêu hồng

          Che nghiêng ngực tròn trái bưởi...

            Nếu không vì giới hạn của bài viết, tôi sẽ trích dẫn ra hàng chục câu thơ đầy hình ảnh rung cảm như thế. Cần khẳng định ngay một điều: "Trường ca anh hùng Lò Văn Giá" trước hết là một bài thơ dài đắm say về đất nước và con người Tây Bắc trùng điệp, một "bản giao hưởng" từ ngữ về tình yêu và khát vọng. Nhưng với tư cách là một trường ca, tác giả đã dày công xây dựng những hoàn cảnh lịch sử - xã hội đầy kịch tính, những chân dung sắc nét về những người tù Cộng sản đeo số vuông, về đồng bào bị áp bức, về kẻ thù của dân tộc - từ đó lý giải tính cách, tâm hồn và hành động xả thân vì nghĩa lớn của người thanh niên yêu nước Lò Văn Giá. Cấu trúc của bản trường ca được xây dựng khá "kinh điển" từ những xúc cảm trữ tình sâu lắng và tinh tế về quê hương Tây Bắc, tác giả dần dần đưa người đọc vào câu chuyện của bản mường những thời"kẻ xấu thèm chiếm đất chiếm mường" rồi từ đó đi vào thân phận đặc biệt của Lò Văn Giá. Từ hoàn cảnh của người thanh niên Thái Bản Cọ nghèo năm xưa, tác phẩm đã dẫn dắt người đọc cảm thông với suy nghĩ, khát vọng của những người tù Cộng sản bị lưu đầy nơi rừng thiêng nước độc - chính những suy nghĩ và khát vọng đó đã cảm hoá sâu sắc Lò Văn Giá và những thanh niên Thái sau đó tham gia vào hội"Tay nóm chất mương"(2). Tác giả lý giải hành động yêu nước dũng cảm của Lò Văn Giá bằng "hồn vía" của đất đai, sông suối, cây cỏ, và bằng tình thương rất người "Anh thương lắm, thương nhiều mường ta..."

            Tác giả cũng dành nhiều dòng thơ say đắm miêu tả mối tình của anh Giá với người vợ yêu; vì vậy, sự hy sinh quên mình cho Cách mạng của anh càng có điều kiện khía sâu vào lòng tiếc thương và kính phục của người đọc.

            Từ trước tới nay, không hiếm thơ ca, văn xuôi viết về ngục Sơn La(3), nhưng đây là tác phẩm trường ca đầu tiên, mạnh dạn ca ngợi một thanh niên quần chúng Cách mạng tình nguyện bất chấp mọi hiểm nguy dẫn đường cho tù Cộng sản vượt ngục, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa.

            Bằng công phu nghiên cứu sử liệu và tìm hiểu thực tế đời sống, với khả năng nhập thân khá sâu sắc, tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và hào hứng những chặng đường dẫn tù vượt rừng đầy hiểm nguy, cả giờ phút chia ly "tuôn trào nước mắt" giữa người thanh niên yêu nước và những người tù Cộng sản rồi sau đó là cuộc gặp gỡ lần cuối đầy yêu thương giữa hai vợ chồng Giá - Liên, và cuối cùng là chuyện Giá rơi vào tay giặc...Hiệu quả thẩm mỹ của tác phẩm đã đạt được khi tác giả đã không chỉ cung cấp thêm cho người đọc những hiểu biết chính xác về lịch sử, mà chủ yếu đã giúp người đọc sống lại với một trong những sự kiện bi tráng và xúc động nhất của lịch sử cách mạng Sơn La thời kỳ tiền khởi nghĩa, đã lay động tâm hồn người đọcbằng tình thương mến và lòng ngưỡng mộ sâu xa đối với người anh hùng miền núi 24 tuổi đời.

            Tôi hiểu vì sao mà nhà cách mạng lão thành Nguyễn Văn Trân - một trong bốn người tù Cộng sản vượt ngục vào tháng 8 năm 1943 ấy đã "hoan nghênh tác phẩm" và viết trân trọng ở cuối cuốn sách"Tác phẩm trường ca Anh hùng Lò Văn Giá của tác giả Dương Tam Kha là một công trình rất công phu có giá trị sử thi rất đáng khen...Và mong rằng tác phẩm này sẽ được phổ biến trong các trường học."

            Và nhà văn Nguyễn Phan Hách trong lời giới thiệu tác phẩm đã đánh giá một cách công bằng "Tâm hồn anh vọng tiếng gió rừng thác reo và những bản tình ca của những cô gái Thái xinh đẹp. Không có tình yêu đắm đuối với miền đất này, không thể có được những cảm xúc thơ như thế.Cái quý của Dương Tam Kha trong Trường ca “Anh hùng Lò Văn Giá” chính là ở điểm này. Mặt khác tình cảm thành kính, nhớ ơn người anh hùng đã hi sinh vì cách mạng là một điều đáng nêu cao cho thế hệ trẻ noi theo."

Tôi nghĩ, giá như anh kiệm lời hơn, cô đúc hơn trong hình tượng và từ ngữ, gía như ... Nhưng tác phẩm đã ra đời, những điều đáng tiếc chẳng có ý nghĩa gì nhiều so với cuộc sống tự thân của nó trong lòng bạn đọc. Tôi, cũng như nhiều người khác, hy vọng cuốn sách này sẽ có mặt trong thư viện của nhiều trường học trên toàn quốc.

                                                                                   

                                                                    Nguyễn Yên Thế

 

1. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2003

2. Hội người Thái cứu quốc

3. Như "Hoa đào đỏ" của Huy Bảo, "Người tù áo sạch" của Nguyễn Anh Tuấn,vv

Nguồn: duongtamkha.com 

DƯƠNG TAM KHA - MỘT NHÀ THƠ ĐAU ĐÁU VỚI THƠ

                                                                                                         Nguyễn Yên Thế

 

            Cứ lâu lâu không lên Sơn La là tôi lại thấy nhớ nhung, bồn chồn. Mảnh đất ấy đã gắn bó với tuổi trẻ khốn khó của tôi - một anh giáo nghèo, nhưng cũng là nơi đã cho tôi cả một mạch nguồn thơ thực phong phú dường vô tận... Và nơi ấy, ngoài học trò vẫn một mực quý mến thầy và các đồng nghiệp cũ đáng kính trọng, tôi còn có một sự gắn bó đặc biệt với một người bạn từng văn cùng trường, cùng sinh hoạt giáo viên tập thể, cùng mang “trọng bệnh” yêu thơ - đó là Dương Tam Kha. Cùng tên với một vị vua cướp ngai vàng cách đây 10 thế kỷ, song Dương Tam Kha lại không có một chút đam mê chính trị nào; anh chỉ say thơ đến độ mê mẩn. Lần nào lên Sơn La, tôi cũng phải cố gắng vào thăm căn phòng bụi bậm đầy sách vở và sặc mùi thuốc lào nằm giữa một khu vườn lớn rậm rịt, để được anh “tra tấn” bằng hàng tập bản thảo thơ dày cộp, bởi tôi đã trót ghim vào tâm tưởng những câu thơ như thế này của một anh chàng được hàng xóm mệnh danh là “thi sĩ hâm”:

 

            “Cỏ may hôm ấy đùa lên má

            Để nhớ dâng đầy bờ môi em"

            “Có phải em là nàng tiên đến từ cõi Phật

            Hay là chúng sinh mong cứu khổ giải oan?

            Nhặt chiếc lá khô viết lên câu thơ

            Thương giọt sương đêm lệ rưng đáy mắt".

            “Thơ Hàn sông lệ vỡ vầng trăng...”

   

         Lần nào chia tay nhau, anh cũng đưa tôi ra bên đường Chu Văn Thịnh đón xe vét khách về Hà Nội, và lần nào cũng thế, chúng tôi đều thấy bâng khuâng, không nỡ rời nhau. Trong bài thơ “Tiễn bạn”, anh đã kể lại cảm xúc ấy:

 

             ...Người về thui thủi mình tôi

             Sớm khuya một bóng gói lời nhớ thương...

 

         Tôi hiểu nỗi niềm của anh, người đang tìm cách tránh xa những tục lụy của đời sau bao năm tháng vẫy vùng kiếm sống đến tuyệt vọng - bỏ nghề dạy học, đi đào vàng, làm thợ mộc..., để rồi lắm khi nhìn lại mơ ước xưa với không ít bẽ bàng, chua xót:

 

             “Bơ vơ chiều nay, tôi trở lại

             Một mình hoang vắng với trời không..."

            Và: “Em nơi đâu? Tôi bơ vơ chiều nay.”

 

        Hồi mới lên Tây Bắc, chúng tôi, những chàng trai trẻ tuổi ngoài đôi mươi tràn đầy hào hứng và mơ mộng:

             “Nơi đây không có thời gian

             Tôi như con bướm say ngàn bông hoa"

             Hoặc: “Xứ ngàn xanh yêu quý

             Hát ngàn lời đâu hết được hồn ta

            Mỗi ngày trôi qua muôn sắc rừng già"

      

          Thực tế phũ phàng của đời sống khiến không hiếm lúc “Dòng thơ trào theo dòng nước mắt”, song không thể cướp đi thi hứng của kẻ “Mơ suốt cuộc đời chiếc áo cóm vòng tay” và luôn nghe thấy, cảm thấy: “Ấm mảnh trăng rừng một tiếng suối trong”, “Hoa ban, hoa đào rưng rưng nước mắt người xưa”, dường như “Tựa hồ thế gian chỉ còn lời hát” của một người tự nhận:"Ta gửi lại mảnh hồn với rừng với suối“... Dương Tam Kha có nhiều bài thơ câu thơ hay viết về Tây Bắc, như đó chính là nơi chôn rau cắt rốn và anh từng lớn lên bằng lời ăn tiếng nói của đồng bào miền núi vậy:

 

             “Đây quê hương tôi:

            Hoa ban chạy đi tìm bạn nhớ

           Hoa pặc piền thăm hỏi bạn thương"

          “Trắng bay hoa gạo thắp sao ráng chiều”

                                                      (Quê mới)

 

          “Có những cánh rừng nguyên sinh ven sông Đà

           Quanh năm sương mờ giăng đỉnh núi

           Có con thuyền độc mộc và thiếu nữ mộng mơ

           Neo đậu một ngày bên bờ hoa dại

           Đêm trăng có tiếng khèn ai dìu dặt

           Gieo bước hoang vu trên con đường làng

           Bất chợt em sửa lại chiếc piêu hồng

           Mùa xuân nở bên dòng suối

                                                  (Bất Chợt)

 

           “Cành ban đầu khuống em, anh đỡ

            Cành bưởi cuối nhà em anh nâng

            Bậc cầu thang ngập ngừng từng bước

           Tiếng động sàn ngỡ gót em qua"

                                             (Đêm ngủ nhà sàn)

 

            “ Em ngồi miệt mài trong khung cửi

             Cánh bướm vờn quanh những đường tơ

             Tay ngà đưa nắng trên nhung lụa

             Nắng như hoa đậu vườn ban trưa.

            Ngôi nhà sàn nghiêng bên sườn núi

            Bếp lửa hồng sao biếc vờn quanh"

                                                  (Khăn piêu)

 

             “Thương nhớ mênh mông đêm hội rượu cần

           Xòe ban trắng cồng chiêng tràn mặt đất"

    Cảm xúc tràn đầy và những quan sát kỹ lưỡng tinh tế về thiên nhiên - con người Tây Bắc là cơ sở để anh viết được thiên trường ca “Anh hùng Lò Văn Giá” ngót 4.000 câu thơ! (NXB Hội nhà văn)

 

    Nhiều năm sau, nhìn lại, anh có thể nói với người se duyên kết tóc với mình:

             “Bao dặm dài anh qua

               Mái tóc giờ điểm bạc

               Yêu thương một mái nhà

                Say tình người xứ lạ"

    Nơi trập trùng rừng núi miền Tây, anh thường nhớ tới đồng bằng, vùng quê thời mới lớn từng có một “Cặp mắt long lanh đánh đuối hồn tôi.... ” Và với hồi ức của người đang sống giữa thiên nhiên Tây Bắc nơi thượng nguồn sông Đà, sông Mã, anh đã có những câu thơ viết về quê hương vùng hạ nguồn sông Mã thật thấm thía:

             “Tôi lớn lên từ một làng quê có một dòng sông

              Có gió mặn mòi cơn nồm cơn bấc

              Có giọt mồ hôi và rét buốt tê người..."

                                               (Sông quê)

 

              “Chuông chùa động thinh không

                Tí tách tiếng mưa vọng lại

                Trong sương khói vị sư già chậm rãi

                Chiều vội qua mau hoa nở lạnh lùng.

                Có thể là con rùa già hóa đá

                Linh hồn oan định nhập cõi thiền..."

                                              (Thăm lại làng xưa)

 

                “Mưa gõ nhịp tiếng kinh cầu mõ lạnh

                  Mây núi giăng sương tựa khói lâm tuyền

                  Hàng trúc đợi vị sư già khổ hạnh

                  Chậm bước hoàng hôn dâng thắp hương đèn."

    Quê hương hiển hiện trong tâm hồn thi sĩ qua những hình ảnh thân thuộc với bao thế hệ, và cũng thật “cổ điển” đối với thi ca:

                  Nâu sồng, cơm vắt, tương cà

                  Câu dân ca một thời phiêu dạt...

                  Gánh cực dồn bước trèo non

                  Song mây quang đứt tủi hờn nén thương

                  Thân cò sớm nắng chiều sương

                  Hoang hoang lạnh bãi truông sình lầy

    Anh viết về người mẹ chốn quê cũ có “Mái tóc trắng màu cánh cò lặn lội” như sau:

                  “Nuôi con cạn bấc dầu hao

                    Nếp nghèo gia giáo một câu tâm nguyền

                    Đạo Nho, đạo Phật lưu truyền

                    Vui hòa nước mắt trải miền gian truân.

                    Mẹ dẫu xa vẫn như gần

                    Trang thơ con lại nối vần ông cha"

    Những lần lang thang trong chợ phiên ở thị xã, khi mà “Mây và trăng anh không thể đem ra nơi chợ phiên”, Dương Tam Kha có dịp ngẫm lại ý nghĩa cuộc đời mình:

                                 Bơ vơ đi chợ chiều nay

                   Không mua chẳng bán mới hay phận mình...

    Thực ra, anh đã làm đủ thứ việc để mưu sinh, nhưng chẳng việc nào ra hồn, trong khi đó thì “Sách đèn thơ phú quên tháng ngày ”, thơ vẫn bám theo như một duyên nợ tự kiếp nào:

                  “Rừng sâu núi thẳm xa vợ con

                   Lên núi tìm vàng vàng chẳng có

                   Làm thơ khóc đời ta không đặng

                   Ngày ngày thơ thẩn bên suối vắng

                   Nhặt hòn cuội trắng ném lên trăng."

 

                   “Ta làm thơ

                     Đãi nghìn vạn con chữ

                     Lang thang một mình

                     ...Vì đời càng thêm mắc nợ

                     Câu thơ chưa phải là vàng

                     Bán không có ai mua

                     Cho người chẳng nhận"

 

                    “Chữ nghĩa văn chương sao mà nặng

                      Ngũ tuần tay vẫn trắng bàn tay."

    Cay đắng thay, kẻ nặng nợ với văn chương làm sao đủ bản lĩnh để đối chất được với sự dè bỉu của những người tỉnh táo:

                      Ông là nhà thơ hử?

                      Tôi không có thời giờ

                      Mưu sinh dày công chuyện

                      Thơ dành người mộng du!

    Nhưng rồi, bởi “thơ từng chữ như hơi sương đọng lại” nên nhà thơ đành chấp nhận cái phận: “Còn lưng đôi chữ hong vào đèn đêm”, và :

                    “Thương câu lục bát bơ vơ

                      Tháng ba có một khách thơ bạn cùng..."

 

                     “Thôi đành một kiếp đa đoan

                      Giọt cay giọt đắng tìm sang bạn hiền"

 

                      “Tôi còn nợ trời tròn đất vuông

                        Đi tìm đôi câu lục bát..."

    Say thơ đến độ, anh đã làm cả một trang Web: “Dương Tam Kha toàn thơ”!

   Dương Tam Kha từng tuyên bố rằng, nguồn sống chính của thơ anh không phải là kỷ niệm và vẻ đẹp của hoa lá, mà là nỗi đau khổ của “Những người dưới đáy cùng xã hội/Hồn nhập đời ta.” Hàng ngày chứng kiến cảnh Chợ Người, anh thương cảm cho những người:

                     “Trông chờ đồng tiền rẻ mạt”:

                       Bán mồ hôi, máu và nước mắt

                       Mặt trời úa vàng, làn da xanh xao.

                      Có kẻ thở dài ngao ngán

                      Nói lời có vần:

                     “Gánh cứt đi đổi rắm!”

                       (Tục ngữ của dân tộc Thái)

    Nhà thơ đàn anh Vương Trung người Thái đã khen bài thơ này hay, và hiện thực lắm. Mượn một câu tục ngữ địa phương tưởng không có gì là thơ cả, anh đã nói được cái sâu lắng của lòng mình cùng sự thật phũ phàng - và đó cũng là chất thơ chân chính!

    Có biết xót xa thương cảm, anh mới biết căm giận những “Bóng đen”:

                     Kẻ ganh ghét tài năng, hận thù văn minh

                     Chiếm đoạt học vị, chức quyền hèn mạt

                     Hắn giấu ngang qua hai thế kỷ

mới biết đồng cảm với những bài thơ thế sự và tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Ngô Văn Phú:

                     Xa xót cuộc đời, xa xót kiếp người

                     Người viết sử vạch mặt bầy gian ác

                     Kẻ xu thời vênh vang đội lốt

                     Chữ tâm hèn ngồi chiếm ngôi cao.

    Một trong những bài thơ hoàn bích hơn cả của Dương Tam Kha là bài “Phố núi”, viết tại Sa Pa. Nếu ai đó tới đây chỉ thấy vẻ đẹp, sự thi vị, thì thông qua cái nhìn của một anh họa sĩ, nhà thơ đã vẽ lên sự tương phản của hai cảnh sống - giữa chủ nhân của các biệt thự sang trọng, các du khách với những cảnh:

                  “Mẹ dắt đàn con, em lả trên vai chị

                   Lần lữa tháng ngày hàng rong lưu niệm".

                    “Mấy cụ già đàn hát bản xa

                   Hai góc chiếu ngồi như tượng đá"

                  “Hàng rào đá ngăn bầy trẻ nhỏ

                   Lũ trâu gầy gặm cỏ cằn khô."

                   “Cả bản ngược xuôi lên rừng xuống phố

                    Đôi mắt dại cháo rau cuối chợ

                    Bước mỏi mòn u ám chiều mưa."

                    “Chàng hoạ sĩ nghiêng mái đầu tóc xoã

                     Bức tranh này chàng vẽ đến bao giờ...?"

    Nhưng Dương Tam Kha không chỉ biết trữ tình và thốt mỉa mai, căm giận, anh còn biết tự trào - và đó cũng là một khía cạnh riêng khá lý thú của thơ anh. Đây là một bài mới nhất của anh, cho thấy sự trưởng thành của bút pháp cũng như cái nhìn của nhà thơ về cuộc đời:

                   “Chùa nương động núi sương giăng lạnh

                    Khói nhang đèn mờ Phật hay Tiên?

                    Phận nghèo lòng thành tâm hương nguyện

                    Phật cười: “Kiếp trước tôi giống anh!”

                                                            (Phật cười)

    Anh chế riễu Nàng Thơ - tức cũng chế riễu mình chơi:                           

                   Nàng thơ... Đích thị là ả đa tình, trái tính, trái nết.

                   Nàng làm khổ ta phút phút, giờ giờ, đêm đêm,

                                           ngày ngày, tháng tháng, năm năm.

                   Ta chẳng còn gì mà nàng đâu chịu buông tha

                   Mời nàng về làm một Manơcanh để nơi cánh cửa

                   Hay bên cạnh ban thờ thêm vui nhà, vui xóm!

     Nhưng, anh lại thú thực ngay sau đó:

                  “Cái ta có được giờ đây là mái tóc bông mây

                    Và ngày ngày nàng thơ hằng gõ cửa"

    Chắc anh không thể làm gì hơn cái việc: "Hát đến bao giờ vơi nỗi cô đơn". Và trong cảnh ngộ “Bao niềm tin, hy vọng tan thành mây khói”, anh vẫn luôn tâm niệm:

                    Trang thơ anh dầu ngót nghìn bài

                    Chưa một lần nỡ phụ tương lai...

    Giờ đây, anh đã rời Sơn La lên sống với gia đình trên thành phố Lào Cai; anh lại tiếp tục hòa mình vào cuộc sống của đồng bào dân tộc, tiếp tục ngẫm ngợi, làm thơ ... và nhớ bạn thơ. Còn tôi, mỗi lần ngược Sơn La làm phim, lại nhớ về căn phòng văn ngập bụi và khói thuốc lào của anh,  ngâm nga câu thơ của anh để nói hộ lòng mình:

                        Người về thui thủi mình tôi

                 Sớm khuya một bóng gói lời nhớ thương...

 

* Những câu trong ngoặc kép và in nghiêng là thơ của Dương Tam Kha lấy từ các tập thơ:

1. Trăng hai miền (NXB Thanh niên)

2. Hạt sương 

3. Hạt muối 

4. Khát 

5. Hương mùa (NXB Văn học)

Trích từ nguồn vandanviet.net

 

 

 

Vài suy nghĩ về bài thơ

“ DƯ ÂM TIẾNG GÀ” CỦA TÁC GIẢ DƯƠNG TAM KHA

 

“ Khôn ba năm dại một giờ” lời căn dặn có tính cảnh báo của ông cha ta không ai là không biết. Thế nhưng có người đã có lúc để dục vọng thấp hèn dẫm đạp lên lương tri nhằm thỏa mãn những toan tính bất lương và thú vật của mình.

Bài thơ “Dư âm tiếng gà” ( trong Tạp chí Suối Reo, số 1 năm 2008) viết về một con người như thế.

Lời thơ mở đầu với tâm trạng thương cảm xót xa và đôi chút trách cứ người bạn lỡ lầm:

 

Hỡi ôi! 

Giữa hai canh gà

Một người vội vã ra đi…

Mà người bạn này đã có một thời:

 

Mới hôm nào

Anh là người tốt

Nhường nhịn người thân

Yêu thương bạn bè như ruột rà

Hi sinh vì đồng đội

Có nghĩa, có nhân

Trái tim anh một thời

Bùng lên ngọn lửa ngút cao dữ dội

Lời thơ mộc mạc, ý tứ rõ ràng nêu bật tình cảm đẹp đẽ cao thượng, ý  chí phấn đấu mạnh mẽ một thời của người bạn . Vì vậy, hơi thở tràn dâng niềm quý mến, kính phục của tác giả.

 

Nhưng tiếc thay và xót xa thay:

 

Một khoảnh khắc thôi

Lơ là cảnh giác

Tha hóa phẩm chất

Cửa quyền, hách dịch

Tham nhũng, trù dập

Tự mãn, tự kiêu

Sa đà vào ăn chơi trụy lạc

Cái khoảnh khắc định mệnh ma quỷ đã khiến anh từ vị thế được trọng vọng rớt xuống chỗ bị khinh bỉ. Vào một thời điểm nào đó, trước những ma lực cám dỗ của quyền hành, đồng tiền, dục vọng thì ranh giới giữa thiện và ác, tốt và xấu.v.v. chỉ là một sợi chỉ mỏng manh. Đó là lúc con người phải cảnh giác, đừng để thú tính đè bẹp nhân phẩm, cái xấu, cái ác ngự trị trong tim, trong óc. Có ai đó đã nói rằng: “ Đừng để lỗi lầm xảy ra lần đầu thì sẽ không bao giờ có lần thứ hai”. Đó là một lời khuyên khôn ngoan.

 

“ Nhân nào quả ấy” , cái gì cũng có cái giá của nó. Sống bạc ác, trụy lạc sẽ phải nhận một kết cục đen tối bi thảm:

Chiếc lá còn xanh tự rời cành

Buông mình theo dòng đời đục tối

Bóng ma đêm đen đưa anh vào con đường tội lỗi.

 

Sự “ ra đi” của anh không bình thường, không theo quy luật “ Sinh, lão, bệnh, tử” mà là “Một người vội vã ra đi”, “ Chiếc lá còn xanh tự rơì cành”. Cái chết thảm bại của anh là chính anh gây ra. Nó sẽ không xảy ra nếu như anh giữ được phẩm chất tốt đẹp như anh đã từng có.

Mấy câu kết luận nhẹ nhàng nhưng từ ngữ, ý tứ rất sâu sắc vừa mang tâm trạng buồn thương, nuối tiếc cho số phận một con người vừa là lời nhắn nhủ mọi người hãy cảnh giác tránh xa vết xe đổ:

 

Tôi viết cho anh và viết cho ai

Ở nơi chín suối

Còn dư âm tiếng gà lần cuối

 

Cái chết thường để lại biết bao nỗi lòng thương xót khôn nguôi, có khi có cả lòng mến phục. Nhưng cái chết không bình thường của anh bạn là tiếng xấu để đời. Buồn thay!

Muốn tránh vết xe đổ, phải dùng vũ khí sắc bén là phê bình, tự phê bình một cách thường xuyên. Về ý thức tu dưỡng, nhà thơ Việt Phương đã có một câu thơ rất thâm trầm sâu sắc: “ Cứ mỗi ngày, ta tự kết nạp ta vào Đảng “. Tu dưỡng tốt sẽ trở thành con người XHCN . Có con người XHCN mới có xã hội giầu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh.

Hiện nay, nhân dân ta đang ra sức học tập và làm theo tấm gương đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một biện pháp vô cùng quan trọng và cần thiết nhằm tiêu diệt mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân ích kỉ bẩn thỉu, chúng ta rất cần có những bài thơ có tính nghệ thuật và tính tư tưởng cao như bài thơ “ Dư âm tiếng gà” ./.

       

Sơn La, tháng 03 năm 2008 .

                                                                                                                                                   Hà Sinh

 

Đêm mộng

 

Đêm từng đêm

Chập chờn cơn mê

Trăng khuya đẩy cửa

Trăng hay bóng em...?!...

 

Mắt em cong vành trăng lược

Làn môi thắm đỏ

Chân êm lối cỏ

Tường vi cành mềm hé nụ

Những đoá hoa lê

Hương thơm nhũ non ngần trắng

Muôn vì sao lung linh

Sông Vàm sóng vờn dịu êm.

 

Đêm mộng thần tiên

Thuyền Trương Chi đậu

Tiếng sáo nỉ non

Trăng thanh bến vắng.

                        29/3/2011

 

           

 

            Vài dòng cảm xúc cho thơ - Gởi bởi : Lâm Thị Thanh Trúc - Vào lúc : (09-04-11 | 22:29)

Kính gửi tác giả “Đêm mộng”

“Trăng thanh bến vắng” nhưng lòng thì xao động bởi “tiếng sáo nỉ non” của chàng Trương Chi ôm khối tình si trốn xuống Tuyền Đài.

“Trăng thanh bến vắng” nhưng trái tim thổn thức chập chờn theo tiếng đẩy cửa khẽ khàng “trăng hay bóng em...?!...”

“Trăng thanh bến vắng” nhưng hồn mộng đêm tiên vẫn lắng nghe được những âm thật khẽ, thật nhẹ “chân êm lối cỏ”, “sóng vờn dịu êm”...

Một trái tim yêu đơn phương thì muôn đời không thể thanh vắng, sóng lòng khuấy động sóng lòng, từng cơn!!!

 

 

 

Phần IV - TÀI LIÊU VĂN HỌC SỬ

 

 

Thương mẹ

 (Nhớ ngày giỗ đầu của mẹ)

 

Bao ngày mòn khô vườn đá

Bao ngày cây lặng phong rêu

Tiếng chổi vun từng đống lá

Tiếng gãy mấy cành củi nhỏ...

 

Mẹ nghe từ hư vô vang động.

 

Mùa đông!

Hanh hao đôi bàn tay gầy

Lưng mẹ dần còng

Ôi giá lạnh

Que diêm ẩm hắt hiu gió lộng!...

 

Âm âm ngọn khói

Trang bản thảo khơi lên ngọn lửa

Mắt mẹ mờ theo năm tuổi

Giờ mẹ đi xa, xót lòng con biết mấy!

 

Mẹ già đốt lá trầu khô

Cháu con xa vắng héo hon lòng già

Đường trần ngàn dặm phong ba

Cháu con xum họp một nhà gì hơn!

 

Bể đời vạn lớp sóng cồn

Nẻo giăng cát bụi vẫn còn ngày xưa

Nhớ ruộng đồng lúc nắng mưa

Kháng chiến gian khổ đã thừa khổ đau

Nuôi con cạn bấc dầu hao

Nếp nghèo gia giáo một câu tâm nguyền

Đạo Nho, đạo Phật lưu truyền

Vui hòa nước mắt trải miền gian truân.

 

Mẹ dẫu xa vẫn như gần

Trang thơ con lại nối vần ông cha

Ba năm trở lại quê nhà

Mẹ chờ mấy đứa con xa xum vầy (1)./.

                        03/6/2010

 

 

Giếng làng

            (Kỷ niệm chuyến về xây mộ chờ khi qua đời)

 

Thẫn thờ hình bóng in giếng làng

Mái đầu bạc trắng ngời ánh trăng

Vầng mây lơ lửng neo ngừng lại

Vì sao lãng đãng ngàn trùng khơi.

 

Có phải là tôi! Tôi đó chăng?

Nửa đời phiêu dạt chốn rừng hoang

Ngày đi có hẹn khi còn gặp

Đâu là địa ngục hay thiên đàng?

 

Từ độ xa quê mãi ăn năn

Cúi xin cỏ nội chốn yên nằm

Làng quê đất ấm nuôi ta lớn

Ôi mảnh đất cằn cỏ vàng trăng!

 

Tổ ấm ta về nơi cố hương

Da diết dòng sông vạn tình thương

Bao lần nhỏ lệ lên trang viết

Ngời văn bi kí đời gió sương*./.

                        Sinh nhật 17/5/2010 (55 tuổi)

 

 

Quê nhà

 

1 - Phố và phố...

Cơn lốc bụi mù

Mưa đỏ gõ cửa kính

Ngạt nồng hơi xăng

Ken dày vuông hộp xi măng

Dãy nhà tù dài giam cầm lũ dế

Ngược chiều gió thổi

Ngược chiều nhân gian

Con đường từ phố về làng...

 

2 - Ôi! Bãi cỏ hoang... bãi cỏ hoang!

Triền đê gió lộng

Luỹ tre, đồi gò

Đàn cò trầm tư hoá đá

Cánh buồm và dòng sông

Đất nâu ruộng cày phơi ải

Lưng mẹ mỏi mòn

Chiều vội tung lưỡi hái

Đồng cạn, đồng sâu

Tiếng chim gọi bạn

Những dấu chân chim chìm sâu gương mặt

Hắt hiu làn khói xám

Quê nhà, ấu thơ

Đất bùn nuôi ta khôn lớn./.

                     03/5/2010

 

 

 

 

DI CHỈ VĂN BIA

Lời mở đầu

 

- Văn chỉ thờ đức Khổng Tử nho giáo Tổng Ngọ Xá tại núi Ngưỡng Sơn, xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung - Thanh Hoá cách đây 117 năm (1889 - 2006) đã trên một thế kỷ.

Nay không còn di tích 1 vạn năm chỉ còn một cái bia đã vỡ 3 mảnh.

- Xuất phát tình hình thực tế: Cuộc chiến tranh chống Mỹ.

- Di tích văn hoá xã chưa vươn tới.

- Họ Dương Chính ông Dương Chúc - Trưởng tộc, kỹ sư đại học, cán bộ huyện Hà Trung khởi xướng cùng cháu chắt trong họ đem 3 mảnh bia đã xây dựng kiến trúc đặt tại mộ cụ tổ Dương Hoán.

1. Tôn sư trọng đạo nho giáo.

2. Kính trọng tôn nghiêm một nhà đại diện nho giáo: Văn thân tú tài Dương Thể Hoán là cụ Tổ đời thứ 11 họ Dương Chính viết bài văn bia. Cụ đặt rất cao nền móng hiếu học, hiếu học cho cháu chắt trong dòng họ thông minh học giỏi thi cử đỗ đạt trở thành người tài phục vụ nhân dân quê hương đất nước.

     

PHIÊN ÂM

"Thiên di văn chỉ bi ký"

Bản tổng văn chỉ

Đinh Mão xuân (1867)

Phan - ty chánh bát phẩm, bổ Lạng Sơn kinh lịch Nguyễn - Công - Sở cung tiến đã, kỳ tạo đoan Thuỷ cụ Hữu Tiền Bi bất cu tu chế thuyết viết Kim Tổng nội đa sỹ vi học bất tố nguyệt ứng cử vị cặp tiền khoa dục chấn ty văn chi uỷ my đắc... trọng phiên chỉnh đồn hồ, toại thương đồng thân hào kỳ lão trí vu trung nhạc, kiến kỳ hậu, ỷ kỳ tiền thân chúng dục sơn xuyến chi anh Tú - ngưỡng quan phủ sát bàng la thiên địa chi văn Chương, đức khả dữ tham hẩy, văn kỳ tại tư hồ - viên trạch, cát nhật kiên cáo chung thiên vu ty tân chỉ tiên thiên khôn càn ty văn mạnh mạch ức thiên vạn niên cẩn thuyên vu thạch, dĩ tho kỳ truyền.

- Thành thái nguyên niên (1889) lục nguyệt, sơ thập nhật.

- Văn thân, tú tài - Dương Thể Hoán

- Hưng công - chánh tổng Phạm Đình Chân

- Phó tổng - Lê Văn Tòng

- Cứu phó tổng - Phạm Văn Cảnh

- Tuần tổng - Nguyễn Văn Năm

Bốc thiên tuyển ký cung tiến thành bi nhất toạ: Bùi thôn cư dĩ: Trịnh Văn Mô.

- Trang các xã

Lý trưởng: Hoàng Văn Thập

- Biểu hiệu xã:

Lý trưởng: Lê Văn Mẫn

- Thượng phú xã:

Đoài thôn lý trưởng: Hoàng Văn Uy

Đông thôn lý trưởng: Phạm Xuân Cần

- Ngọc âu xã:

Ninh thôn lý trưởng: Trần Văn Viên. Thạch bằng thôn lý trưởng: Trình Văn Lữ Cửu Thị Giáp lý trưởng Đỗ Xuân Hạp. Hưng thôn lý trưởng Lã Văn Vỵ. Đông trung thôn lý trưởng Lê Văn.

- Ngọ xá xã:

Trần thôn lý trưởng Lê Văn Tuần

Na thôn lý trưởng Phạm Duy Tân

Yên Vinh thôn lý trưởng Nguyễn Công Diệm

Tương Lạc thôn lý trưởng Vũ Văn Lễ

Vũ thôn lý trưởng Mai Văn Quyền

Yên Phú thôn lý trưởng Phamh Huy Triển

Bùi thôn lý trưởng Hoàng Văn Thương.

 

 

 

BÀI KÝ

Thiên di văn chỉ

Viện Hán nôm Trung ương dịch

 

            Văn chỉ bản tổng do chánh bát phẩm phán ty Lạng Sơn Nguyễn Công Sở cung tiến vào năm Đinh Mão (1867).

            Việc làm văn chỉ đã có bia ghi lại không phải nói nhiều, nho sỹ học hành mà không biết noi theo chân nho nên phải nêu gương các bậc tiền nho để trấn hưng tư vấn sa sút.

            Vậy thương lượng với các bậc thương hào kỳ lão thiên di tới trung nhạc có tiền án, hậu chẩm, sơn xuyên chung dục quả là đất văn chương vậy chọn ngày tốt kính cáo thiên di về nơi mới.

            Văn mệnh mạch tư văn ngàn năm mãi mãi vậy khắc vào đá để truyền lâu dài.

- Ngày 10 tháng 6 thành thái thứ 1 (1889)

- Văn thân tú tài: Dương Thể Hoán

- Hưng công chánh tổng: Phạm Đình Chân

- Phó tổng: Lê Văn Tòng

- Cựu phó tổng: Phạm Văn Cảnh

- Tuần tổng: Nguyễn Văn Năm

 

 

BÚT KÝ

Bia đá văn chỉ thờ Đức Khổng Tử đặt tại mộ tổ họ Dương Chính

            Mục đích nội dung bài văn bia do cụ Dương Thể Hoán văn thân tú tài biên soạn viết. Khắc bia đá đặt tại Văn chỉ thờ Đức Khổng Tử của một Tổng ngọ xá (trước là tổng Ngọc Âu) bao gồm 5 xã, 16 làng.

Xã Ngọc Xá gồm 7 làng

Xã Ngọc Âu gồm 5 làng

Xã Thượng Phú gồm 2 làng

Xã Biểu Hiệu 1 làng

Xã Trang Các 1 làng

- Dưới chế độ phong kiến nước ta từ ngàn xưa nhân dân cùng các thân hào thân sỹ nho giáo tôn sư trọng đạo, tôn sư sùng đạo nho Khổng Tử kiến trúc xây dựng văn chỉ thờ Đức Khổng Tử, Mạnh Tử và các bậc tiền bối văn nho.

 - Đầu xuân năm mới hàng năm các vị văn thân gồm Tiến sỹ cử nhân, tú tài và những người ngưỡng mộ văn học, học thức cao, tổ chức lễ nghi cúng tế long trọng để cầu mong cho nhân dân con cháu học hành thông minh khoẻ mạnh, thì cứ đỗ đạt công thành danh toại.

- Tổ chức này ở tỉnh Thanh Hoá có văn chỉ thờ Đức Khổng Từ địa điểm tại làng Hà Sen gần chợ Phủ huyện Hậu Lộc xuống đến tổng làng thí dụ như Tổng Ngọ Xã năm Đinh Mão là năm 1867.

Tự Đức năm thứ 20 (Tự Đức 1848 - 1883) kiến trúc xây dựng văn chỉ ở đỉnh núi xạ làng Thượng Phú (trước là làng Thăng Đường) do cụ Nguyễn Công Sở chức vụ Phan ty chánh bát phẩm Lạng Sơn kinh lịch quê làng Thượng Phú cung tiến xây dựng.

- Mỗi làng trong xã có xây dựng văn chỉ có tổ chức hội làng Văn hàng năm đều tế lễ như Làng Na. Văn chỉ thờ Đức Khổng Tử ở sau Nghè Na.

- Đến đời cụ Dương Thể Hoán một nhà văn thân tú tài.

+ Sinh năm 1842

+ Mất năm 1922

- Năm 1870 đời vua Tự Đức nhà Nguyễn cụ thi đậu tú tài.

- Năm 1873 đời vua Tự Đức nhà Nguyễn, cụ lại thi đậu trường Nguyên (sau là cử nhân).

- Năm 1889 vua Thành Thái năm thứ 1 lúc bấy giờ cụ 47 tuổi (1842 - 1889) sau 16 năm đậu tú tài, cử nhân.

- Cụ nghiên cứu: Tổng Ngọ xá địa dư ruộng, dân số đông, bao gồm 5 xã 16 thôn, hàng năm nhiều học sỹ thi cử không đậu, thi có đậu rất hiếm.

- Theo truyền thuyết học sỹ thi cử không đậu là do Văn chỉ thờ Đức Khổng Tử đặt địa điểm cũ chưa đúng, không được hướng "Văn mệnh mạch" dù có học giỏi, thi cử không đậu, phát triển văn học chậm.

- Năm ấy cụ có sáng kiến đề xuất thông qua cụ Nguyễn Công Sở chức vụ là Phan ty chánh bát phẩm Lạng Sơn kinh lịch gốc quê ở làng Thượng Phú, đồng thời bàn bạc với thân hào, thân sỹ, kỳ lão chánh Phó tổng, lý trưởng trong toàn tổng cùng nhau đi đến thăm quan ngoạn cảnh cả một vùng bao quanh núi Ngưỡng Sơn (có đến thờ đức Lý Thường Kiệt).

- Địa thế núi Ngưỡng Sơn rất hùng vĩ, cơ sở tốt đẹp phát triển văn học tạo nguồn động lực lớn cho học sỹ thi cử đỗ đạt, danh vọng cao sang.

- Ca tụng địa điểm văn chỉ đặt trên núi Ngưỡng Sơn thật là tuyệt vời.

Cụ có viết: "Kiến kỳ hậu, ủ kỳ tiền - thân chung dục sơn xuyên chi anh tú

Ngưỡng quan phủ sát bàng la thiên địa chi văn chương".

- Bàn bạc thống nhất chọn ngày lành tháng tốt là ngày mùng 6 tháng 10 năm 1889 Thành Thái năm thứ nhất, quyết định dời văn chỉ thờ Đức Khổng Tử của Tổng Ngọ Xá về xây dựng địa điểm phía Bắc núi Ngưỡng Sơn - xã Hà Ngọc.

Hoàn thành việc xây dựng văn chỉ hội văn học hàng tổng tu lễ cúng tế kính cáo với trời đất.

Tôn sư trọng đạo kính cáo với Đức Khổng Tử, Mạnh Tử và các bậc tiền bối văn nho chứng giám, chấp nhận cầu mong độ trì "Văn mệnh mạch" lưu truyền mãi mãi cho muôn đời sau.

- Cụ Dương Thể Hoán có viết một bài văn bia khắc vào đá đặt tại địa điểm, văn chỉ Đức Khổng Tử ký tên là văn thân tú tài Dương Thể Hoán.

Phần tiếp theo những cụ có lòng cung tiến để xây dựng văn chỉ.

- Chánh tổng

- Phó tổng, cựu phó tổng

- Tuần tổng - Cư sỹ

- Lý trưởng 17 thôn trong 5 xã.

- Bài văn bia đầu đề là: "Thiên di Văn chỉ bi ký"

* Giai đoạn chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ trên 30 năm trời.

Quê hương Hà Ngọc giặc Mỹ đánh phá tang thương ác liệt - Đền chùa, miếu mạo, văn chỉ hàng tổng bị phá sạch, không còn nữa.

Nay vẻn vẹn chỉ còn một cái bia đá lại bị đập vỡ làm 3 mảnh.

***

- Trưởng đất và cụ Văn nho tiền bối đã ban lộc cho gia đình cụ:

- Đời Thành Thái lục niên năm 1894 con trai cả của cụ tên là Dương Quýnh, sinh năm 1864 - năm 30 tuổi thi đậu tú tài.

- Đời Thành Thái cửu niên, năm 1897 hai người con trai của cụ là:

+ Con trai cả: Dương Quýnh, 30 tuổi đi thi lại đậu cử nhân.

+ Con trai thứ 2: Dương Huyến, 28 tuổi sinh năm 1869 đi thi đậu tú tài, sau 5 năm là năm 1903, 33 tuổi đi thi lại đậu tú tài (gọi là tú kép).

- Người cháu của cụ là con của cụ Dương Huyến, năm 1915 thi đậu tú tài.

- Chứng minh rằng: Việc dời văn chỉ thờ Đức Khổng Tử đến địa điểm núi Ngưỡng Sơn, xã Hà Ngọc là năm 1889 năm Thành Thái năm thứ nhất thì sau 5 năm con trai cả của cụ thi đậu tú tài.

- Sau 8 năm hai người con của cụ, hai anh em đi thi đồng khoa.

Con trai cả thi lại đậu cử nhân, con trai thứ 2 thi đậu tú tài.

- Sau 14 năm người con trai thứ 2 của cụ đi thi lại đậu tú tài (gọi là tú kép).

- Sau 26 năm người cháu, con cả của cụ Huyến là Dương Chiến đi thi đậu tú tài.

- Anh em con cháu của cụ đều học chữ nho, các khoa thi (thi Hương ở tỉnh, thi hội thi đình ở Kinh đô Huế).

+ Các cụ có đi thi nhưng không đậu.

+ Kế tục truyền thống cha ông, sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa con cháu chúng ta nối tiếp thi đậu tiến sỹ, phó tiến sỹ, cao học, đại học, là văn nghệ sỹ, doanh nhân từ tâm tài cao đức trọng.

***

Kết luận: Cụ Dương Thể Hoán là một nhà văn thân nho giáo, có trình độ học vấn, uy tín lớn đối với thân sỹ, hào mục kỳ lão trong tổng.

- Đặt cao vấn đề "Khuyến học" động viên con cháu trong toàn tổng thông minh học giỏi trở thành người tài phục vụ quê hương đất nước.

- Cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu trong dòng họ "Uống nước nhớ nguồn và coi trọng âm phúc của cha ông tổ tiên".

- Chắc chắn nhất định con cháu chúng ta đạt điểm cao trong nền văn học thời đại.

- Hôm nay, ngày 17 tháng 3 năm Bính Tuất (2006) tiết thuộc Thanh Minh, con cháu dòng họ Dương Chính do ông Dương Chúc - Trưởng tộc đại diện đem bia văn chỉ hàng tổng dựng bên mộ cụ - Thuộc khu vực phần mộ tổ họ Dương Chính.

- Với lòng kính trọng tôn nghiêm một vị tổ đã có công lao lớn nhất ở thế kỷ XIV - thể hiện một dòng họ mang theo dòng máu nho giáo, hiếu học mà các cụ tổ đã viết di huấn truyền lại cho bao thế hệ con cháu sau này.

- Kính mong các vị thuỷ tổ, các vị tiên tổ dòng họ Dương Chính chứng giám độ trì cho cháu chắt khoẻ mạnh, học hành thông minh ngoan ngoãn.

Gia đình hạnh phúc ấm no, đoàn kết vui vẻ, thành đạt.

- Xứng đáng tự hàng quang vinh thay họ Dương Chính đã có nền móng "Di tích văn hoá" lâu đời.

- Quá trình tham khảo ý kiến các cụ nhiều tuổi trong xã như: Cụ Mai Hữu Ngoạn - Cán bộ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch UBND huyện Hà Trung, đồng thời nghiên cứu bài văn bia và đối chiếu một số tư liệu trong gia phả họ Dương Chính cũng chưa thật đầy đủ, xúc tích.

Do trình độ văn hoá còn hạn chế, mong rằng cha chú, cháu chắt trong dòng họ hết sức thông cảm cho.

- Ra sức phấn đấu nhiệt tình tham gia đóng góp bổ sung phong phú, hoàn hảo hơn, thật là quý giá vô cùng.

 

Tôi xin chân thành cảm ơn!

 

- Hà Ngọc, ngày 17 tháng 4 năm 2006

(Ngày 20 tháng 3 Bính Tuất)

Tác giả: Dương - Đát

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC

18 Nguyễn Trường Tộ - Ba Đình - Hà Nội

ĐT: 04.7.161.518 - 04.7.161.190

Fax: 04.8294.781

E-mail: nxbvanhoc@hn.vnn.vn

Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh

290/20 Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Quận 3

ĐT: 08.8469858 - Fax: 08.8483481

 

Chịu trách nhiệm xuất bản:

NGUYỄN CỪ

Chịu trách nhiệm nội dung:

NGUYỄN THỊ HẠNH

 

Biên tập:          HẠNH DUNG - THUÝ HỒNG

Trình bày:       THU HÀ - THU HUYỀN

Bìa:                  MINH THẮNG

Sửa bản in:      DƯƠNG TAM KHA

 In 1.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5 cm, tại Công ty TNHH một thành viên In báo Lào Cai. Địa chỉ: 045 Mường Than - P. Kim Tân - TP. Lào Cai, ĐT: 020 3840 070. Giấy đăng ký KHXB: 749-2011/CXB/18-119/VH. In xong và nộp lưu chiểu tháng 9 năm 2011.

 

                                                                    Nguồn thơ: duongtamkha.com                                               Cập nhật ngày 05 tháng 9 năm 2011

Chia sẻ

ADMIN TP

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *