Lời giới thiệu
Thị xã Sơn La có đường phố mang tên Lò Văn Giá
Lò Văn Gía người con của dân tộc Thái được truy tặng danh hiệu Anh Hùng vì có công đưa đường giúp một số chiến sĩ Cộng sản vượt ngục Sơn La trước Cánh mạng 1945.
Anh bị giặc giết hại năm 23 tuổi. Cảm phục trước tấm gương cách mạng sáng chói của Lò Văn Gía, tác giả Dương Tam Kha đã để nhiều thời gian viết bản trường ca này.
Dương Tam Kha yêu quê hương đất nước Tây Bắc. Dòng thơ cuồn cuộn chảy trong cảm xúc thơ có mạch nguồn từ các trường ca của người Thái.
Anh tả quê hương:
Dưới ao con cá đùa
Cưỡi lên lưng nhau
Con cá vẫy đuôi to
Cho sao rơi lấp lánh
Trên nương con gà
Cõng con đi dạo
Con gà
Khoe đuôi óng mượt như tơ
Trâu đàn
Thì khoe lưng đẹp
Lưng đẹp
Như hòn đá suối
Đá suối
Nhảy lên lưng đồi
Lời thơ đam mê, say đắm:
Ngọn Pha Đin, Cao Pha
Con dốc dài
Ba lần ngựa hí
Con dốc đứng
Bảy lần ngựa dừng chân
Đất ta bằng
Sương nằm như đệm ấm
Đất ta cao
Mây ủ mây giăng
Ngày nắng
Mặt trời đỏ quả cà chín
Ngày mưa
Con thác reo, thác xối
Thác mỏng như tơ
Thác bay như khói
Ta nói lời
Bằng tay cầm tay…
Tác giả - người con của Thanh Hóa lên Sơn La dạy học, rồi sinh cơ lập nghiệp lấy nơi này làm quê hương thứ hai.
Tâm hồn anh vọng tiếng gió rừng thác reo và những bản tình ca của những cô gái Thái xinh đẹp. Không có tình yêu đắm đuối với miền đất này, không thể có được những cảm xúc thơ như thế.
Cái quý của Dương Tam Kha trong Trường ca “Anh hùng Lò Văn Giá” chính là ở điểm này. Mặt khác tình cảm thành kính, nhớ ơn người anh hùng đã hi sinh vì cách mạng là một điều đáng nêu cao cho thế hệ trẻ noi theo.
Hà Nội 7 - 2003
PHAN THẢO VIÊN
50.000đ
ANH HÙNG LÒ VĂN GIÁ
Trường ca
Khi ta còn nhỏ
Búi tóc bằng củ hành
Khi ta còn bé
Cánh tay
Như gióng đốt tre gầy
Gốc đa đầu bản
Chưa lớn bằng chõ xôi
Cây me cuối mường
Mới to bằng bụi lau
Rừng già
Chưa thành cái nương rông
Bãi sông
Chưa làm lên ruộng cấy lúa
Con đường
Không có như bây giờ
* *
*
Thủa ấy
Con lợn rừng xuống ăn
Ở gậm sàn nhà ta
Con hổ về đẻ con
Ở bãi cỏ vườn sau
Con gà lôi dắt đàn con
Tìm quanh gốc sắn
Con vượn trèo thành đàn
Đu gãy cành na
*
* *
Cái rừng cho ta
Nhiều cái măng cái nấm
Con suối nhiều tôm
Tôm ăn đêm
Mắt sáng như sao
Con suối nhiều cá
Cá vờn nắng
Không nghe bước chân ta đến
Con ốc nằm phơi lưng
Kín hòn đá xanh rêu
*
* *
Bản trên
Lấy được gánh nặng bông lau
Làm đệm ấm
Mường dưới
Kiếm được đầy bung bông gạo
Làm gối êm
Nhà nhà
Làm cột to bằng mạy lý(1)
Người người
Có giường tủ bằng mạy dôm(2)
Đường vào bản
Không vướng cành gai, cành móc
Lối lên nhà
Không rậm cành dướng, cành lau
Hoa Pặc - piền
Soi mình bên suối
Hoa bưởi trắng thơm
Phấn vàng rơi trên vai áo
Gái vừa lớn tập thêu
Thêu nên piêu đẹp bảy sắc cầu vồng
Cái chăn cái vải
Chất đến pan cao nhà dài(3)
Trai nên khôn tập săn
Săn được con voi độc một mình trong rừng
Bắt được con cá chiên, cá măng
Dài như tàu ngựa ăn cỏ.
(1) Gỗ lí: Rất cứng, vàng óng
(2) Mạy dôm: cây lát
(3) Pan: cây xà nối các đầu cột
*
* *
Bấy giờ
Bản trên cách nhà ta
Nửa ngày ông mặt trời mọc
Mường dưới xa
Nửa tuần trăng lên trăng lặn
Chân ta đi qua nhiều con suối
Mắt ta nhìn nhiều ngọn núi cao
Lối rừng không thấy
Dấu chân người đi tới
Đường suối khó tìm
Nóc nhà hỏi thăm
Buổi sáng ông mặt trời đứng bóng
Chim hót không biết sợ
Tiếng chim
Trong như tiếng suối khe sâu
Đêm về con nai tác
Đầu nương ta mới phát
Tiếng nai
Kêu lạc bên giường ta nằm
Núi cao nhiều mây đẹp mây lành
Sương chiều sương sớm
Suối dài đi mãi không dừng
Tiếng hát ngân nga
Nhà ta làm tổ
Soi bóng xuống dòng suối phía trước
Bản ta san sát nóc nhà
Đẹp thêm cho cánh rừng phía sau
Ta vui sống yên lành
Lo làm được nhiều cái nương cái rẫy
Ngô lúa đầy sàn
Không lo cái nghèo cái đói
Hạt giống để thừa
Vụ trước nối vụ sau
Dưới ao con cá đùa
Cưỡi lên lưng nhau
Con cá vẫy đuôi to
Cho sao rơi lấp lánh
Trên nương con gà
Cõng con di dạo
Con gà
Khoe đuôi óng mượt như tơ
Trâu đàn
Thì khoe lưng đẹp
Lưng đẹp
Như hòn đá suối
Đá suối
Nhảy lên lưng đồi
Đá suối
Còn biết đánh nhau
Con trâu ăn no
Hếch mặt lên trời nằm ngủ
Lốc cốc cái nhạc con bò
Kêu vang vách núi
Con bò
Mang cái yếm dài sát đất
Cái yếm dài
Nối theo cái đuôi con đi trước
Chúng lững thững nối bước
Chảy dài như con suối qua nương
*
* *
Chuyện kể lời dài
Từ đời ông bà để lại
Kể qua lời ngọn lửa đỏ đêm đêm
Ngọn lửa
Giữ ấm thêm cho mường, cho bản
Ngọn lửa
Đi theo tiếng khèn lên nương
Lời kể suốt mùa gặt lúa.
Có tiếng chim chiêng lóa ánh mặt trời
Ánh mặt trời chín vàng
Trên cánh đồng Châu Yên
Lời kể theo mùa hoa lau, hoa gạo
Nở trắng, nở đỏ đồi núi lớn
Đồi núi lớn sương phủ mênh mang
Khắp miền Châu Mộc
Lời kể
Theo người đi tìm vàng tìm bạc
Làm lễ ra mắt dâu hiền rể quý
Nhiều người tìm về
Đất Kim Chung, Pi Toong, Tạ Khoa, Suối Chiến (1)
Đi đến Châu Yên
Nhiều chuối chín vàng
Chờ người già ăn nếm
Đi đến đất Quỳnh Nhai
Con cá măng, cá quý
Chờ dân bản chia phần
Hạt nếp tan xứ Mường Chanh(2)
Ủ đón lá dong rừng
Lên hương thơm đầu bản
Thịt con hươu, con nai
Bên sông Đà Mường La
Đợi làm xâu dài
Nướng trên gác bếp
(1)Kim Chung thuộc huyện Yên Châu; Tạ Khoa thuộc huyện Bắc Yên; Pitoong, suối Chiến thuộc huyện Mường La.
(2) Mường Chanh: thuộc huyện Mai Sơn.
*
* *
Đất mường
Ta quý ta yêu
Bản mẹ, bản cha
Ta thương, ta nhớ
Ta sắm nhiều quà
Đón vui xuân mới
Ta lo đầy kho
Mừng đẹp tết sang
Người già
Lo cất rượu mời khách
Trẻ nhỏ
Tung tăng chân sáo chuyền cành
Khách ở ít ngày
Thì thăm ao gần
Khách ở thêm lâu
Đi dạo núi xa
Ao gần hoa vông nở đỏ
Cho cá soi bóng
Núi xa hoa kim ngân trắng xóa
Gió bay ngát hương
Khách thăm gái yêu ta
Vui hát điệu xòe
Điệu xòe để hoa lửa thêm cao
Khách thăm trai tài
Cất lời mời trăng
Trăng hát
Theo khèn ngân suối vắng
*
* *
Hát rằng
Con suối làm nên mường ta
Mường ta gần Mường Muổi(1), Mường Mụak(2)
Đất tổ ta ở Mường Thanh(3), Mường Lò(4)
Ngọn núi làm nên bản ta, bản bạn
Ngọn Pha Đin, Cao Pha
Con dốc dài
Ba lần ngựa hí
Con dốc đứng
Bảy lần ngựa dừng chân
Đất ta bằng
Sương nằm như đệm ấm
Đất ta cao
Mây ủ mây giăng
Ngày nắng
Mặt trời đỏ quả cà chín
Ngày mưa
Con thác reo,thác xối
Thác mỏng như tơ
Thác bay như khói
Ta nói lời
Bằng tay cầm tay
Tay ta dìu nhau
Bước qua con suối
Con suối rêu mềm
Đầy đàn cá lượn
Con cá lượn nước trong
Con suối
Soi bóng chân dài, chân trắng
Soi bóng
Mặt người, mặt hoa nở đẹp
Soi bóng chiếc Piêu hồng
Che nửa má ửng
Chiếc piêu hồng
Che nghiêng ngực tròn trái bưởi
(1) Huyện Thuận Châu
(2) Huyện Mai Sơn:
(3) Điện Biên - tỉnh Lai Châu
(4) Huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái
***
Mường ta
Có từ ngày
Ông mặt trời
Thấp bằng chiếc đũa
Ông mặt trời đụng đầu
Cái cối chày giã gạo
Cối chày giã gạo
Ăn theo con nước
Con nước làm ổ trong ống bầu
Ống bầu sinh ra
330 giống lúa dưới ruộng
Ống bầu sinh ra
330 giống cá chia đàn
Ống bầu sinh ra
550 giống người Thái
Trăm nơi vạn nẻo(1)
Ống bầu theo ta lên nương
Hóa giọt mồ hôi
Rơi trên nương ta mới phát
Cho ngô, lúa trổ cờ đơm hạt
Bông lúa thành mặt trăng
Treo trên cao đỉnh đồi
Ống bầu
Rủ đàn cá sông Đà, sông Mã
Rủ đàn tôm đêm
Thành “lính mẳm”(2)
Lính mẳm đông nhiều
Xếp hàng bờ liếp vách
Lính mẳm
Chờ búp cải ngồng bãi trước
Lính mẳm
Đợi măng lay bên chõ xôi đồ
Ống bầu sinh ra
Cha non, mẹ nước
Hồn mẹ, vía cha
Kết thành tộc người
Tộc người
Đi theo đầu nguồn
Sông Đà, sông Mã
Tộc người
Như lim, như sến
Lim, sến
Cội rễ từ đất mọc lên
Tộc người
Như cái măng rừng
Ăn theo mùa nước cạn, nước lớn
Tộc người
Nên bầu, nên bạn
Cùng người Kinh, người Mường
Người Phù Lá, người Si La
Người Khơ Mú, người Xinh Mun
Người Kháng, người Hoa
Người Giáy, người Xá
Người Tày, người Nùng
Người Hà Nhì, người H’Mông…
Anh em như bầu một giàn
Nên bầu bắc giàn dây leo
Nên bầu đừng cắt dây gốc
Dây gốc giữ cho
Hoa trái chẳng héo khô
Hoa trái nối mùa
Đời này, đời khác
Làm người
Phải biết sống cùng nhau
Cây to
Một người không thể nâng vác
Nước sông Đà
Không bao giờ cạn
Hồ Ba Bể
Giếng Tiên mãi còn
Hạt gạo Mường Thanh
Ăn miếng cơm lam phải nhớ
“Pỉnh tộp”, “mẳm pa”, “nai khô”(3)
Nhắc người chớ được quên
Ông mặt trời
Có thể ngủ quên trên cành gấc
Ông mặt trời
Có thể chui vào bụi mâm xôi
Con suối
Có thể xô cánh rừng
Ruộng đồng tức tối
Con suối
Có thể lăn hòn đá
Lên bờ nằm chơi
Nhưng những lời
Cha dặn, cha nói
Con khắc ghi vào lòng
Con nhớ đừng quên
(1) Theo Quam tô mương
(2) Mắm tôm cá
(3) Pỉnh tộp: Cá nướng; Mẳm pa: Mắm cá; Nai khô: Thịt nai sấy khô.
***
Cha kể cho con
Một thời bình yên
Cha nối lời kể cho con
Một thời loạn lạc
***
Thuở bây giờ
Hòn đá Nà Mường
Chưa rơi
Cánh đồng Chiềng Cơi
Còn hẹp
Hang Thẳm Ké
Hãy còn bé bé
Hang Bó Cá
Đường nước còn đi
Khe bản Hẹo
Dâng đầy nước lớn
Bầy voi
Kéo bước thành đàn
Thú hoang
Trêu người làm bẫy
Con khỉ
Tranh hái quả cụ gìa
Trẻ thơ
Giẫm lên dấu chân con gấu
Mường đẹp
Gửi hoa thơm theo gió
Bản giàu
Tiếng lành vang xa
Tiếng lành vang xa
Hóa thành hiểm họa
***
Bản mường
Phải tránh thằng giặc kẻ xấu
Người chạy ngược Mường Lào
Dắt nghìn trâu, vạn bò
Đi lún đất
Trâu đứt mũi
Thành lũ trâu rừng
Bò mất dây
Thành lũ bò hoang
Kẻ chạy xuôi Mường Sang(1)
Đem theo đàn ngựa quí
Ngựa lông đen
Mang bao vàng lớn
Ngựa lông trắng
Gùi tải bạc to
Nghìn nồi đồng
Rơi ở rừng Chiềng Nơi
Vạn chum chĩnh
Trôi ở suối Mường Vạt(2)
Kẻ xấu
Ở Mường trời tối tăm
Kẻ xấu
Ở cõi ma tăm tối
Kẻ xấu
Vuốt nanh thú hoang còn lạ
Kẻ xấu
Mặt giống mặt đười ươi
Kẻ xấu
Binh nhiều tướng lắm
Thèm chiếm đất, chiếm Mường
Chiếm mường
Ăn hết cá sông cá suối
Chiếm mường
Ăn hết muông thú trên rừng
Chiếm mường
Ăn hết kho vàng thóc lúa
Chiếm mường
Uống hết chum rượu cần
Chiếm mường
Ăn hết mật con ong khoái
Chiếm mường
Ăn hết sâu tre, sâu chít(3)
Chiếm mường
Thèm gái đẹp múa xòe
Chiếm mường
Thèm tiếng đang điệu khắp(4)
(Khắp xòe không cho mặc áo váy)
Người già cắn môi bật máu
Ông mặt trời đỏ mặt quay đi
Muôn vàn cỏ cây sầu úa
Cỏ cây sầu úa
Muốn nên lửa cháy
Đám trai bản
Chém tay vào cột
Bỏ lên rừng
Làm ná
Lên rừng
Làm bẫy, làm chông
Bẫy đá
Lá rừng xanh che phủ
Bẫy quả
Gai tua tủa đu lên cành cao
Con ong khôn
Canh giữ miệng tổ
Con hổ khéo
Nằm ngủ nghiêng tai
Cây núi đá
Làm nên gỗ cứng
Gậy tầm vông
Đen óng tre già
Tên sắt
Tên đồng
Mũi lao
Sắc nhọn
Lưỡi dao
Lưỡi mác
Sợi tóc chẻ đôi
Ta làm
Thành gò
Thành đống
Gò đống
Thấm đều nhựa độc rừng sâu
Nhựa độc rừng sâu
Luyện thành nồi to, nồi lớn
Nhào nhuyễn keo da trâu
Dính chặt
Bắn trúng
Như bỏ chài gai kết
Bắn trúng
Như luồn bọ nẹt trong xương
Bầy thú xâm lăng ơi
Ngươi hết đường sống
“Phà ơi” số định sẵn rồi(5)
Chúng mày phải chết
(1)Mường Sang: Huyện Mộc Châu
(2) Mường Vạt: huyện Yên Châu
(3) Sâu tre: nhộng măng tre; sâu chít: Nhộng cây chít - vị thuốc quý.
(4) Đang khắp: Làn điệu hát dân ca Thái
(5) Phà ơi: Trời ơi.
***
Bản mường ta
Cháu con Lạn Chượng(1)
Bản mường ta
Mang dòng máu Khăm Sam(2)
Chí đã quyết
Không gì lay chuyển được
Núi sông này
Gấm vóc ông cha
(2,3) Lạn Chượng, Khăm Sam: Anh hùng dân tộc Thái. Khăm Sam huy động toàn bộ nhân dân miền Tây Bắc theo Lê Lợi chống quân Minh xâm lược(1407-1472), được phong quan phục hầu, mang quốc tính nhà Lê.
***
Giặc Minh bạo tàn
Từ phương Bắc tràn sang
Giết hại dân đen
Vơ vét bạc vàng
Máu chảy thành sông
Sông ứ dòng máu đỏ
Hờn căm
Dâng chất ngất trời mây
Mỏ đồng Tạ Khoa
Mỏ vàng suối Chiến
Pi Toong, Hua Lon
Xác người như núi
Oan hồn thảm thiết kêu than
Ngàn năm bản mường nhớ mãi
***
Miền Tây
Đời đời ghi nhớ công ơn
Quê hương xứ Thanh
Có ông Lê Lợi
Cứu đất cứu mường
Cứu nước non ta
Cờ nhân nghĩa
Sáng ngời chân lý
Sông Mã, Sông Đà
Cá hết cá lại về
Thuyền độc mộc
Én bay, én lượn
Cánh đồng Mường Thanh, Mường Lò
Thóc lúa lại đầy thung xa
Núi rừng bản Hài, bản Cọ
Nấm, măng chen bước người đi
Hoa đẹp giăng nẻo lối
Tiềng khèn
Theo suối ngân nga
Đất này
Đất ông cha nhiều đời để lại
Cánh đồng rộng
Cho đàn cò bay
Đàn cò bay
Ghé thăm chiếc piêu hồng bờ ruộng
Đàn cò đậu
Bên cọn nước quay quay
Đàn cò xô nghiêng
Cánh tre gió hát
Đàn cò
Khoe cánh trắng bên hoa Pặc piền
Hoa Pặc piền
Báo mùa xuân sang
Đất này
Đất của hoa ban
Hoa ban nở
Con ong rừng lạc lối
Con ong rừng
Rung cánh hoa rơi
Để phấn hương thơm
Rối lòng lứa đôi hò hẹn
Tiếng khèn vuốt mềm làn gió lan xa
Chiều nắng đẹp đỏ nghiêng triền dốc
Nhạc ngựa reo
Tiếng đồng trong quá
Làn khói xanh
Ủ ấm mái nhà
Ta hiểu đất
Tháng ngày nồng nắng gắt
Cọng rơm vàng
Ủ dậy hơi men
Từng hạt thóc
Trên cánh đồng mới gặt
Từ hạn khuống này
Nuôi ước mơ xa
Ta với đất
Xẻ chia bao khó nhọc
Cơn khát chờ ta
Trên đỉnh non cao
Cây khôn lớn
Đứng đầu ngọn gió
Ôm chặt đất vào lòng
Như những bàn tay
*
* *
Tự nơi nào
Nguồn mạch đổ về đây
Để muôn đời
Ngân lên câu hát
Câu hát
Theo tay người gieo hạt
Đất nảy mầm
Dâng nhựa sống lên cây
Ngàn mạch nhỏ
Từ Viêng Giảng rộng dài
Dòng Nậm La
Từ xa xôi dồn tới
Xanh biếc ánh trăng
Một suối tóc mây
Cô gái Thái
Giấu ánh nhìn đỉnh núi
Lưng trời mây bay vời vợi
Bóng núi bóng chàng
Ngả xuống vòng tay
Những chàng trai
Ra đi không hẹn ngày về
Người chờ đợi
Mỏi mòn tròng mắt
Một ngày mai
Một ngày mai
Người ấy trở về
Thủy chung son sắt
Đất trời nguy nga
Giang sơn gấm vóc
Mó nước đầu nguồn
Tắm mát hồn con
Nhịp cầu tre
Đong đưa cánh võng
Con nhớ những lời mẹ ru
“Con người có tổ có tông
Con nước có mạch, có nguồn”
Mạch nước đầu nguồn
Nuôi con lớn khôn
Hồn của đất
Lắng sâu vào nhịp thở
Mỗi bước con đi
Mỗi việc con làm
Con nguyện xứng
Là con của bản
*
* *
Những người con của bản
Như cái măng rừng
Trỗi đất vươn cao
Màu da xạm
Nắng gió Lào cháy lửa
Con hổ vào rừng
Còn giấu lối đi
Người con của bản
Vào hang bắt hổ
Sừng lũ trâu rừng
Thua những cánh tay
Những cánh tay
Từng chặt đầu thú dữ
Lay đổ cây rừng
Xô xuống vực sâu
Những cánh tay
Biết chặn dòng thác lũ
Giọng trầm hùng
Như sấm vọng trời xa
Con dốc trâu rơi
Con vực ngựa ngã
Chân trụ như đồng
Đạp núi chao nghiêng
Vai vác được
Cây gỗ dài mười sải
Cây gỗ tròn
Bốn người ôm vòng quanh
Bàn tay
Cầm cuốc
Cầm mai
Dao dài
Dao sắc
Chặn đứng dòng sông
Bắt nước hiền hòa
Thung dài, thung xa
Tưới chăm đồng ruộng
Làm mương, làm phai
Chăm lo sớm tối
Mùa màng bội thu
Trời phải chiều người
*
* *
Núi rừng nhớ thương
Gió hát ngàn lời
Ngàn lời ngợi ca
Người con của bản
Người già hằng đêm thầm nhắc
Người trẻ theo đêm kể dài
Một hôm
Anh Giá trở về(1)
Lặng lẽ đến bàn thờ khấn vái
Con hổ theo chân
Thầm rơi nước mắt
Thương anh
Làm bầu bạn ngàn sâu
Con hổ lặng nhìn
Anh bên vách đá
Khóc thương Vua Lê(2)
Văn bia tráng khí
Pháo đài Dua Cá(3)
Quen bước chân anh
Đất linh thiêng
Khói trầm hương lan tỏa
Anh thương lắm
Thương nhiều mường ta
Nơi mó nước
Hay Mẹ Rồng làm tổ
Mẹ Rồng đêm đêm
Ngân hát đầu nhà
Hòa tiếng gió
Cây đa cuối bản
Tiếng hát âm vang
Lòng hang vách đá
Tiếng hát trải dài
Đồng lúa nương dâu
(1)Đồng chí Lò Văn Giá
(2) Văn bia Quế Lâm ngự chế của Lê Thái Tông 1440
(3) Pháo đài Dua Cá: ở bản Cá - xã Chiềng An.
*
* *
Nhớ một lần
Anh Giá trở về
Lặng nhìn xa xăm
Buồn bên song cửa
Mẹ cha mất sớm
Khi anh còn nhỏ
Phận nương nhờ
Chú thím chăm nuôi
Cha mẹ nuôi
Tuổi già bóng xế
Như ngọn đèn trước gió
Đìu hiu
*
* *
“Liên ơi!
Anh không gặp được em
Anh nhớ hình em
Ánh mắt dịu hiền
Nhớ suối tóc
Mềm như dải lụa
Mường bản quý yêu
Thường khen em đẹp
Khen đôi bàn tay
Làm nương, làm rẫy
Khéo thêu Piêu hồng
Váy áo nên hoa
Con suối ngừng ca
Con chim quên hót
Con nai vàng
Ngơ ngác nhìn em
Mỗi bận đi nương
Ngõ nhỏ lại qua
Em có nghe
Lòng anh thổn thức
Bao đêm gió mát trăng trong
Em có nghe
Khèn anh hát gọi
“Thương nhau đầu núi cuối sông
Núi kia có đổ lòng không chuyển dời”
Sông có cạn
Tình không vơi cạn
Kết tóc dài
Tay nắm bàn tay
Còn non, còn nước, đất này
Còn lời son sắt với người mình yêu
Quản chi nắng sớm mưa chiều
Quản chi cách trở những điều thị phi
Chung Mường, chung nèo đường đi
Lời yêu gìn giữ khắc ghi trọn đời”
-“Vẳng nghe tiếng hát ngọt bùi
Anh ơi em chẳng xứng người anh yêu
Nhà em mái dột cột xiêu
Nhà neo, nẻo vắng, hút heo bóng người
Khách sang chẳng đoái dạo chơi
Đường Piêu em vụng lỡ rồi phụ ai
Chẳng bằng hoa cúc, hoa mai
Ghé bên đèn sách cho ai phụ lòng”
Nói rồi ai trở gót hồng
Tiếng con chim Cuốc nghe chừng tương tư
Ông Tơ bà Nguyệt chẳng thưa
Giá - Liên đôi lứa khéo vừa nên duyên
Thủy chung son sắt lời nguyền
Phong ba bão táp con thuyền trùng khơi
*
* *
Kể từ như đũa có đôi
Kể từ Liên - Giá thành đôi vợ chồng
Con hổ nhớ anh
Nhiều lần con hổ đi tìm
Con hổ nhớ anh
Nhiều lần con hổ khóc
Con hổ buồn
Con hổ chết
Bên gốc đa già
Mắt mở trừng trừng
Nhìn về
Đồi Khâu Cả
*
* *
Đồi Khâu Cả
Tòa rộng dãy dài
Đêm ngày lũ Tạo Phìa
Ôm chân giặc Pháp
Gấm nhung lụa là tha thướt
Ngực mang Bắc đẩu bội tinh
Cổ đeo cây thập ác
Vòng vàng, vòng bạc
Kẻ hầu người hạ
Ngựa xe đón đưa
Yến tiệc linh đình
Điệu nhạc hồn ma
Xập xình chấp chóa
Điệu nhạc theo ánh lửa ống(1)
Soi đôi ngà voi cong cong
Soi đầu con tê giác
Một sừng
Soi chạc con hươu
Mười hai nhánh
Soi củ trầm hương
Bằng cái bung
Soi cờ ba que
Bằng cái váy
Cái váy me đầm
Ngắn bằng một gang
Cái mũ quan Tây
Bằng nửa ống ủng
Cái mắt thì xanh
Như mắt mèo sợ lửa
Cái mũi thì quặp
Như mỏ cú
Caí tóc bù xù
Như tổ quạ
Cái bụng
Chứa nhiều điều ác
Cái đầu
Đựng đầy tính tham
Lên Mường Muổi(2)
Bắt cá ao vua
Vào Chiềng Cọ
Cướp bắt dê, chó
Xuống Cao Pha
Bắt con nai con gấu
Sang Bó Mười
Cướp bầy ngựa đẹp
Suối Mường Bú
Không còn con vịt đi dạo
Nương Sẳng Hay
Hết con gà đi chơi
Trâu, bò thả rông
Bị bắn
Con lợn trong chuồng
Bị trói khiêng đi
Người già
Quanh năm không được ăn bát cơm
Trẻ nhỏ
Không có manh quần, tấm áo
Trai bản
Phải làm phu, làm dịch
Sức cùng, lực kiệt
Thân tàn ma dại
Ruộng đồng
Trơ gốc rạ
Thóc lúa
Về kho Tạo- Phìa
Bãi nương
Mọc đầy cỏ gianh, cỏ gai
Cỏ gianh, cỏ gai
Phủ dày gốc mài, gốc sắn
Xin một nắm để ăn
Bị đánh
Xin một hạt để làm giống
Bị mắng
Lời mắng nhiều hơn
Nước mắt trời mưa
Lời chửi nhiều hơn
Hòn đá suối
Anh em họ hàng
Không nhận
Ải Lung, Êm Nai(3)
Không biết
Pỉnh tộp, mẳm pa, cơm lam
Dâng cho thằng Pháp
Đệm ấm, khăn piêu
Đem biếu Me Tây
Uống rượu no
Theo chân, theo tay
Đi tìm gái bản
Gái bản
Đêm tối phải trốn lên rừng
Gái bản
Ban ngày phải trèo gác bếp
Con gái ra đường
Phải có người dắt
Con gái còn non
Phải vội gả chồng
Quan Pháp
Vây bắt lên đồn làm nhục
Lũ Tạo - Phìa
Tìm về làm vợ lẽ
Gái mới lớn
Nước mắt
Đã ướt đầm mái tóc
Gái chưa lên khôn
Nước mắt
Đã ngập má hồng
Người già
Kêu trời
Khàn cả tiếng
Người già
Gọi đất
Mất cả hơi
Khóc, kêu
Bị chúng đánh đập, đòn roi
Khóc, kêu
Bị chúng đốt nhà, phá cửa
Con chim trên rừng
Còn kiếm được miếng mồi
Con cá dưới nước
Còn tìm được hang sâu để ở
Dân mình
Không kiếm nổi miếng ăn để sống
Dân mình
Lang thang đói nghèo chờ chết
Kể sao hết
Nghìn lời khổ cực
Kể sao được
Vạn điều đắng cay
(1)Đèn Nê ông
(2) Huyện Thuận Châu
(3)Họ mạc bên nội, ngoại, bậc trên, Ải là cha.
(4) Họ mạc bên ngoại, Êm là mẹ.
***
Đồi Khâu Cả
Đất cằn trơ sỏi đá
Ngọn gió Lào
Gào thét cỏ cháy khô
Mùa đông buốt lạnh
Sương phủ dày đặc
Khe nước nhỏ
Rơi chân đồi mắc cạn
Bốn phía nhìn
Ba mặt cánh đồng hoang
Đường lên núi
Hang hùm miệng sói
Quân giặc lang sa
Vạn bề hiểm độc
Biệt xứ tù đày
Hận thù Cộng sản
Nước độc ma thiêng
Mạng người cỏ rác
Địa ngục trần gian
Lao ải giam cầm
Nối bao đời
Cai ngục bạo tàn
Lũ Tạo - Phìa
Theo đuôi làm phản
Cơ hàn cực khổ
Mường bản oán than
Người Cộng sản
Luyện rèn chí lớn
Ba mùa
Ngang trời nhạn bay
Bảy mùa
Ngang trời ban nở
Quê hương mòn mỏi chờ trông
Khắc khoải nặng lòng đất nước
Bạn các anh
Thợ thuyền phu phen
Gương mặt xạm đen
Lầm than rách rưới
Mỏ thiếc Cao Bằng
Mỏ sắt Thái Nguyên
Ga xe Hải Phòng
Bến cảng Ba Son
Đường ray Hà -Lào
Nhà đèn Hà Nội
Hà Tu - Hà Lầm
Cửa Ông, Cẩm Phả
Hòn Gai, Móng Cái
Lào Cai, Yên Bái
Bến Thủy, Trị Thiên
Sài Gòn, Chợ Lớn
Từ Bắc chí Nam
Vùng lên quật khởi
Giương cao ngọn cờ
Liềm búa công nông
Bạn công nhân
Bên bạn dân cày
Ngoài cửa ngục
Bền gan chiến đấu
Độc lập - Tự do
Dạ vàng nung nấu
Gian khổ hy sinh
Hiến giọt máu cuối cùng
Tổ quốc gọi
Chuyển rung sông núi
Miền ngược miền xuôi
Chung ngọn cờ hồng
Quyết làm rạng rỡ non sông
Xứng danh con Lạc cháu Hồng ngàn xưa
Thân tù ngục
Chí hờn căm sôi sục
Đạp lên đầu thù
Giữ trọn niềm tin
Lũ giặc cuồng điên
Mưu ma chước quỷ
Tự đào mồ tận số ngày mai
Núi rừng lũy thép bủa vây
Lòng dân nguyện với đất này thủy chung
Vượt bao sóng gió bão bùng
Lòng dân, ý Đảng ngàn năm vững bền
***
Mường bản chúng ta
Như cây rừng
Bám trụ non cao
Thương các anh
Bạn tù cần lao khổ cực
Lặng lẽ âm thầm
Bền gan tiếp sức
Một nắm lá rừng
Giảm cơn đau nhức
Vài điếu thuốc lào
Que diêm lửa ấm
Một nén rau lưng ép(1) đầu nương
Thương lắm…
Thương nhiều…
Những người con kính yêu
Vì giang sơn
Chịu bao điều khổ cực
Xe nước ngược
Vượt đồi dốc đứng
Đập đá
Bờ vực thẳm cheo leo
Thân gầy yếu
Sớm chiều than củi
Khố trần
Mang bao bố buộc chằng
Cơm nước
Sánh không bằng đòn thù ác độc
Thương các anh..
Những người yêu nước thương nòi
Tình đồng chí
Xẻ chia đùm bọc
Viên thuốc nhường
Khi mình ốm đau
Nhường tấm áo
Che thân đắp đậy
Đường đời muôn nẻo gian truân
Tình dân nghĩa Đảng muôn lần sáng trong
Ăn măng đắng
Lắng tình thấm ngọt
Biết vùi than
Khoai sắn lửa hồng
Rượu tuy nhạt
Cùng nhấp chung
Một câu đang khắp
Tình nồng tặng nhau
Già làng
Tỏ khéo mời cầu
Dừng chân
Xơi tạm miếng trầu, nậm ta(2)
Tình dân biết mấy đậm đà
Nhà tranh vách nứa
Như là chốn quê
(1)Ép: Đồ dùng mây tre đan, phụ nữ Thái thường đeo bên mình
(2)Nậm ta: Nước lã.
*
* *
Chốn quê nghèo
Mẹ yếu con thơ
Xóm làng tan hoang
Tiêu điều xơ xác
Đồng ruộng nẻ khô
Cô bùn bỏng rộp
Cát bờ sông
Ngút rặng tre già
Cha lam lũ
Một đời lao dịch
Biệt xứ tha hương
Lưu lạc không nhà
Mịt mù núi khuất ngàn xa
Trắng cồn cát trắng trăng tà mờ soi
Chí làm trai
Đường dài gắng gỏi
Gác tình riêng
Cất bước ta đi
Sá gì gian khổ hiểm nguy
Nước non nô lệ tiếc gì tuổi xuân
Quyết dấn bước
Vào đường tranh đấu
Đòi tự do
Phá ách cường quyền
Ta có Đảng
Có chủ nghĩa Mác - Lê nin
Mặt trời chân lý
Sáng soi rạng ngời
Bầu máu nóng
Sục sôi nung nấu
Giành Tự do - Độc lập - Ấm no
Thân tù ngục
Chí ngút bừng sông núi
Rũ đời tối tăm lam lũ
Đứng lên
Kìa biển Đông trùng khơi dậy sóng
Ánh hào quang
Tỏ rạng trời hồng
Vì Tổ Quốc vẹn lòng trung
Máu xương trả hận non sông giống nòi
Những mặt người
Màu da nắng xạm
Sâu đáy mắt
Sinh lực tràn chói lói
Đêm tối rồi tan
Ngày mai sẽ tới
Khắp đất trời đón dậy
Ánh xuân tươi
Gió núi reo vang
Suối hát nối lời
Đôi mắt sáng
Dâng ngàn tia chớp
Hạt giống nảy mầm
Từ sỏi cát
Đôi môi run lên
Khi uất hờn căm
Vai kề vai
Chân vững bên chân
Truyền nhiệt huyết
Bền gan chiến đấu
Lửa ngút hận
Trận này trận cuối
Nguyện hy sinh
Vì Tổ quốc dài lâu
Bao anh em
Kẻ trước người sau
Nơi ngục tối
Vươn mình đứng dậy
Anh Lý anh Tường
Và bao đồng đội
Máu đỏ rạng ngời
Hồn soi sông núi
Ngàn năm lịch sử còn ghi
Tổ quốc lâm nguy
Vì nghĩa cả làm người chiến sĩ
Đồng đội các anh
Kẻ còn người mất
Ôi mảnh đất miền Tây đau thương
Dù bãi chôn thây
Ngập đồi Gốc Ổi
Dù nghĩa trang bản Cá
Xương trắng nằm phơi
Giờ phút cuối cùng
Niềm tin giữ trọn
Ngẩng cao đầu
Toàn thắng một ngày mai
Một ngày mai
Tương lai rạng rỡ
Ánh xuân hồng
Thắm nở đào tươi
Đảng cho ta phẩm giá con người
Giọt máu đỏ
Trong dòng nguồn cách mạng
Nơi ngục tù
Trái tim thành lửa sáng
Bầu trời tự do
Én lượn ca vang
Màu cờ Đảng
Màu máu tim ta đó
Xô viết Nghệ An
Lớp lớp sóng tràn
Núi Bài Thơ
Trái tim người thợ mỏ
Nam bộ, Đô Lương
Đã đứng lên rồi
Chiều miền Tây
Bừng lên ráng đỏ
Giông bão ngày mai
Xóa sạch mây mù
“Nhạn lai hồng” ơi(1)
Nỗi lòng mong đợi
Đem mùa xuân
Tưới khắp đất trời
Liên - Giá hai em!
Ngày mai thắng lợi
Các anh sẽ đưa em về Hà Nội
Ta cùng nhau
Dạo khắp miền quê
Thăm sông Hồng
Thượng nguồn xứ sở
Bốn mùa sắc đỏ phù sa
Thành ruộng đồng
Cánh cò chiều bay lả
Đoàn thuyền căng gió lộng ra khơi
Quê hương ta chung dòng sông Mã
Những nhịp cầu hò hẹn lứa đôi
Thành tình yêu
Muôn đời bền chặt
Xưa thời Tạo - Phìa
Hiến Hom oan khuất(2)
Đợi chờ
Héo hắt
Mỏi mòn
Hồn thiêng
Còn ngân lên câu hát
Câu hát
Xanh bờ dâu non
Lúa ngô trổ cờ đơm hạt
Mời em
Xuống thuyền Sông Thương
Đêm trăng nghe lời giã bạn
Trăm thương…
Ngàn nhớ…
Người ơi…
Trao nón ba tầm
Trời mưa ướt áo
Yếm đào để làm tin
Đêm nào lời thương hò hẹn
Khăn piêu
Bắc cầu
Hạn khuống
Khăm Panh yêu đất, yêu mường
Nàng Mứn khéo tay gây dựng(3)
Bầu trời còn sao chiều sao sớm
Sao Khun Lú - Nàng Ủa đẹp mãi đêm đêm(4)
Mỗi ngày bắt đầu từ mặt trời lên
Nơi ngục tối
Các anh nhìn về phương ấy
Cây đa đón gió mặt trời(5)
Bản Hẹo quê em
Ngời muôn ánh đỏ
Ơi Bản Cọ
Một thời để nhớ
Một chàng trai từ đó ra đi
Túi vải
Bao dao
Tìm măng
Tìm nấm
Theo dòng Nậm La
Xúc tép
Quăng chài
Gặp các anh
Những người tù khổ sai
Đêm đông dài
Một ngày ấm lại
Hạt giống nảy mầm
Kết thành mùa trái
Tô Hiệu
Lê Duẩn
Trường Chinh
Nguyễn Lương Bằng
Nguyễn Văn Trân
Trần Đăng Ninh
Lưu Đức Hiểu
Khơi nguồn sức mạnh nhân dân
Bản Hẹo - Kham
Cọ - Hài - Bó - Cá
Những con người lao khổ vùng lên
“Tay nóm chất mương” khắp nơi lập hội(6)
Dậy phong trào
Chia đất dân nghèo
Giảm sưu thuế phu phen tạp dịch
Châu Mường La
Phố Chiềng Lề
Chiềng Cơi: Mé Ban, Pột, Là
Mường Mụak: Mường Chanh, Chiềng Chung
Phù Yên: Quang Huy, Tường Hạ
Đất anh hùng
Ghi dấu những chiến công
Truyền danh thơm
Những anh hùng gan dạ
Cầm Văn Nò đem hai con theo cách mạng(7)
Hoàng Nó, Cầm Liên gian khổ vì dân(8)
Đẹp mãi tuổi thanh xuân
Hoa ban nở ngát rừng
Lò Văn Giá
Cầm Văn Thinh
Chu Văn Thịnh…
Nguyện xả thân vì tổ quốc hy sinh
Giương cao ngọn cờ
Đảng cộng sản quang vinh
Trời Miền Tây mỗi ngày lại sáng
Ánh dương hồng
Xua đêm tối dần tan
Ngọn lửa căm thù
Phản đế bài phong
Như nước lớn
Dâng tràn mặt thác
(1)Các chiến sĩ cộng sản Nhà từ Sơn La đặt tên cây lá cây đỏ ngọn là "Nhạn lai hồng"- cánh nhạn báo mùa xuân.
(2) Hiến Hom: Nhân vật trong truyện Hiến Hom - Cầm Đôi.
(3) Khăm Panh, Nàng Mứn: hai nhân vật trong truyện Khăm Panh.
(4) Cây đa Bản Hẹo: Di tích cách mạng, nơi liên lạc giữa Nhà từ Sơn La và Trung ương Đảng 1940-1945.
(5)Tay nóm chất mương: Tổ chức người Thái yêu nước, được Nguyễn Văn Trân, Lưu Đức Hiểu - hai tù chính trị ở ngục Sơn La thành lập. Tổ chức ban đầu gồm 3 thành viên: Lù Pui(Bản Cá), Lò Văn Giá(Bản Cọ), Cầm Văn Thinh( Bản Hài). Anh Thinh làm tổ trưởng.
(6) Cầm Văn Nò: Quê Quang Huy- Phù Yên - Sơn La, đem hai con trai là Cầm Đan Quế và Cầm Tiến Chức đi theo Cách mạng từ rất sớm.
(7)Hoàng Nó: Tên thật là Cầm Văn Lường, sinh năm 1925 tại Chiềng Ban - Mai Sơn, nguyên TW uỷ viên, Bí thư tỉnh uỷ Sơn La. Cầm Liên sinh năm 1927 tại Mường Chanh - Mai Sơn, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La.
*
* *
Thằng Chánh xứ Cút Xô
Bàng hoàng khiếp đảm
Lẽ nào có ở đây mầm cộng
Từ bên ngoài
Hay từ trong ra
Phải khảo tra
Tù đày
Chém giết
Tìm cho được
Từ chân nhà ngục
Khắp núi rừng
Bản xóm gần xa
Kẻ cầm đầu
Phải quyết không tha
Thà giết nhầm
Còn hơn bỏ sót
“Nước mẹ” đang lâm cơn cảm sốt
Tay chân kẻ nào lập công
Ta thưởng muối
Thưởng vàng
Ban mề đay
Thăng chức
Các người
Quan phủ Tri Châu
Tạo mường, tạo bản…
Rặt một lũ
Tham tàn
Vô lại
Nhắm mắt, bịt tai
Mẹc(1)! Xà lù(2) Cu Soong(3)
Chờ đấy
Cộng sản ném các người vào chuồng lợn
Ta ra lệnh
Từ giờ trở đi
Nơi nào làm loạn, làm phản
Ta cách chức các người
Tống vào nhà ngục
(1) Mẹc: Tiếng Pháp - Lời chửi
(2) Xà lù: Tiếng Pháp Salaud- Bẩn thỉu
(3) Cu Soong: Tiềng Pháp Conchon- Con lợn.
*
* *
Lũ Tạo - Phìa
Một bầy lúc nhúc
Lạy lục
Xụp gối van xin
“Chúng con xin vâng lời quan lớn
Xin một lòng
Theo ‘Nước mẹ” tồn vong
Con heo vòi
Tìm ăn xác thối
Lũ quạ diều
Rình bắt gà con
Don dúi ăn măng
Làm tổ bụi gai
Con chuột luồn hang
Đào bờ ruộng cạn
Con dơi ăn đêm
Sợ ngày trời sáng
Con tê tê
Nghe động vùi tai
Bọn Tạo - Phìa
Phản nòi
Hại nước
Gieo rắc đau thương
Trăm mường, nghìn bản
Mói một lời
Là ma làm
Buông một câu
Là quỷ ám
Bụng chứa đầy
Bọ nẹt
Sâu róm
Mình mọc dày
Lông nhím
Chuột hôi
Quát dân lành
Sát gần tận mặt
Nạt người cùng
Miệng kề mang tai
Người người
Muốn tránh đi ở nhà nương
Nhà nhà
Muốn yên trú nơi lều ruộng
Đường đầu bản
Mọc dày nấm rêu
Lối cuối mường
Nhện bầy chăng lưới
Cơm sáng
Phải gói đựng đáy đếp
Bữa tối
Không dọn bát bày mâm
Bày mâm
Miếng ngon Tạo cướp
Dọn bát
Mắt quạ Tạo nhìn
Nhà có gái đẹp
Tạo hỏi sục tìm
Nhà có trai lớn
Bắt phu phải dịch
Lúa mới uốn câu
Tính sưu đòi thuế
Ngô vừa đen râu
Trừ công phạt nợ
Gậm sàn không còn
Phân trâu, phân lợn (1)
Có ao phải đành
Ao cạn, ao khô
Tìm kiếm miếng ăn qua ngày
Củ mài rừng sâu
Có đâu đào mãi
Củ ráy, củ nâu
Ngứa chát tội đời
Người mẹ nào đêm khuya
Giục gọi:
“Dậy! dậy đi con
Dậy đi làm
Con còn phải lấy chồng”
Con ốc bò lên đỉnh núi cao
Con hến nằm sâu nơi suối vắng
Thân cò đầu thác cuối ghềnh
Gieo neo một đời lận đận
Phận nghèo
Mòi mòn chờ người cứu giúp
Ơn cao dày
Ai độ thế phù nhân
Khăm Sam hết rồi
Ai người nối gót
Nhà Khăm Panh
Li loạn lầm than
Ba chàng trai Mường La
Anh Phụi
Anh Thinh
Anh Giá
Đưa đơn đòi giảm
Thuế nặng sưu cao
Mười hai hộ nghèo
Được chia ruộng đất
Núi rừng nhắc mãi tên anh
Phố Chiềng Lề
Anh Thịnh
Anh Phúc
Anh Lanh...(2)
Vận động nhân dân
Bền gan chiến đấu
Tiếp tế nhà tù
Nuôi giúp Việt Minh
Chớp thời cơ
Vùng lên quật khởi
Giành Tự do - Độc lập non sông
Muôn lòng
Hướng về mặt trời mọc
Lật đổ ách Tạo - Phìa
Xóa bỏ xiềng gông
Núi rừng không còn
Bóng lang sa ác độc
(1) Ý nhà nghèo không có gia súc
(2) Tòng Lanh - Chú ruột bà Tòng Thị Phóng - Bí thư TW Đảng, trưởng ban dân vận TW.
Cơn gió chạy dài
Theo thung núi
Nghìn vạn người
Cất tiếng ca vang
Đường vào bản
Không vướng cành lau, cành dướng
Lối lên nhà
Chập chờn đàn bướm lượn
Mùa xuân gái trai
Hái bông ban trắng
Quả còn lửa bay
Bảy sắc cầu vồng
Cánh đồng rộn ràng
Nhịp chiêng, tiếng trống
Bản làng vui
Hội té nước cầu may
Từng lứa đôi
Lội dòng nước chảy
Tay cầm tay
Ánh mắt đắm say
Hoa bưởi trắng
Búp thon em hái
Nắng xuân vàng
Mái tóc nhẹ bay
Xanh xanh cánh đồng
Đồi núi ngất ngây
Hương sữa lúa
Trổ đòng đơm hạt
Ngô phất cờ
Thẫn thờ cô thiếu nữ
Chiếc piêu hồng
Che má thắm hây hây
Trời đã hết rồi
Tăm tối những ngày
Trả lại cho ta
Cuộc đời đổi mới
Đường làng
Ríu ran tiếng cười giọng nói
Bầy trẻ thơ
Vui cắp sách tới trường
Người già
Đón mừng có ngôi nhà mới
Kể chuyện lời thương
Gây dựng bản mường
Dặn dò cháu con
Đi theo hướng mặt trời
Có Đảng, Bác Hồ
Soi đường chỉ lối
Anh Tô Hiệu ơi!
Mầm đào ngày nào
Tay anh ươm trồng
Nơi ngục tối
Những nụ hồng chớm nở
Nắng xuân về
Tỏa ấm trời cao
Màu lá non tơ
Xanh màu hy vọng
*
* *
Hai mươi bốn tuổi xuân
Chưa xuân nào
Anh Giá vui đến thế
Tiếng Pí trong lòng(1)
Ngân lên khe khẽ
Lý tưởng Đảng
Chói chang hồn trai trẻ
Nhiệm vụ vinh quang
Lời trao lặng lẽ
Chi bộ giao cho anh
Một ngày nắng đẹp
Dẫn đường đoàn tù Cộng sản
Vượt ngục Sơn La
Về chiến khu cách mạng
(1): tức Pi Pặp: Một nhạc cụ của dân tộc Thái
*
* *
Con ong tìm hoa
Say hương mật ngọt
Con chim đón ánh mặt trời
Cất tiếng ca vang
Con thuyền yêu biển
Căng buồm gió lộng
Con sóng ru bờ
Suối vắng nằm mơ
Ơi đỉnh núi Hài
Ủ bao huyền thoại
Rồng thiêng từ đâu
Đậu núi bản Lầu
Núi bản Cọ
Ngực tròn cô gái Thái
Mó nước trong lành
Hát dưới trăng khuya
Đêm nay ta dạo quanh
Phố nhỏ Chiềng lề
Nghe trăn trở
Quê hương mình không ngủ
Những ngả đường
Về đây hội tụ
Ngọn gió Lào
Thao thức sóng Đà Giang
Bao nao nức
Miền quê quen thuộc
Búp Lạnh, Tạ Chan
Tà Hộc, Phiêng Ban
Tà Xùa, Hang Chú
Làng Chếu, Xím Vàng…
Khắp mọi nẻo đường
Hướng về chiến khu cách mạng
Những ngọn núi
Trông lên núi Tản
Những dòng suối
Dòng sông
Xuôi dồn về Sông Hồng - đất mẹ
Cánh đồng, bản xóm, làng quê
Sương mù tan
Ánh mặt trời bừng sáng
Con đường dải lụa giăng ngang
Tiếng khèn ngân vang triền dốc
Cuộc đời xưa gian truân khó nhọc
Cuốn theo dòng thác đổ vực sâu
Con sông Đà nhuộm màu máu hận
Thấm đất lành
Những bản nhỏ mù sương
Từ bao đời
Tiếng gọi đau thương
Trời cao, thung sâu
Ai người thấu hiểu
Núi lại núi
Mấy tầng chất ngất
Thung gần, thung xa
Gió quất nắng thiêu
Đất thương yêu
Đất nói bao điều
Đáy lòng ta
Dâng trào nước mắt
*
* *
Ngày mùng 3
Tháng 8
Năm 1943
Ngày ghi dấu chiến công
Người anh hùng bản Cọ
Hai mươi bốn tuổi xuân
Muôn đời ca ngợi
Đưa đoàn tù cộng sản
Vượt ngục thắng lợi
Anh như con đại bàng đỉnh núi
Đợi bão tố về
Vỗ cánh tung bay
Con hổ thiêng
Giấu mình vách đá
Chợt gầm lên
Trời xanh xao động
Con voi đầu đàn thét gọi
Lũ cáo, cầy bỏ bầy
Tháo chạy
Sóng sông Đà
Vẫn cuồn cuộn chảy
Thác ngang trời
Dội đất chuyển rung
Chông gai nghìn núi
Cản đường
Suối khe vạn nẻo
Ngăn lối
Đỉnh nào cao
Bằng đỉnh Pú Luông
Sương đặc dày
Đâu bằng Châu Mộc
Đường quanh co Tạ Chan, Tà Hộc
Nối bản làng vắt vẻo tầng mây
Mưa rừng miền Tây
Xối xả đất này
“Xô lở núi đồi để thành dòng chảy”(1)
Tảng đá lớn
Trượt rơi xuống vực
Cau mặt thành tai mèo nhọn sắc
Cánh rừng nguyên sinh
Lá cành xơ xác
Sóng dập vùi
Theo lũ cuộn trôi
Con đường
Không lối mòn trên cát
Chân đất
Đầu trần
Vượt núi
Băng đèo
Mó nước đầu nguồn “Ta xả” cheo leo(2)
Người Xá bao đời
Làm nương, làm rẫy
Tiếng chày khuya
Bản Mường bên suối
Bếp than hồng
Người H’Mông giữ lửa thâu đêm
Chặng đường trường chinh
Dồn nhịp bước chân
Gian khổ chập chùng
“Tù nhân” thử sức
Đêm khuya
Anh Giá một mình
Thầm khóc
Thương các anh nhiều
Những người vì nước, vì dân
Anh Bằng
Anh Đáng
Anh Hiểu
Anh Trân
Đi rừng không quen
Như người miền núi
Cơn sốt chưa tan
Mắt, môi quầng tím
Đòn thù còn hằn
Máu ứ thịt da
Dốc lại dốc
Băng rừng lội suối
Đèo nối đèo
Vách đá cheo leo
Đường trơn
Bùn lầy
Mưa xối
Cây rừng
Cản lối bàn chân
Cỏ xước, cỏ gai
Tầng tầng, lớp lớp
Dây chằng lá kín
Tối trời
Han
Lan dày mặt đất(3)
Vắt
Đuổi theo hơi người
Chân không
Trèo đá sắc
Tay bám
Cành mục khô
Mồ hôi
Cay tràn mắt
Quần áo
Gai cào nát
Mặc
Mưa gào, gió thét
Mặc
Gió Lào, lửa hun
Tinh thần người cộng sản
Luyện rèn thành thép gang
Qua bao bản bao làng
Dân thương yêu đùm bọc
Bát cháo bẹ rau măng
Xẻ chia bao khó nhọc
Đường giao liên
Đường con Mang, con Sóc
Con Mang
Đạp lá gai cỏ sắc
Buổi sáng
Ông mặt trời gửi lời chim hót
Con Mang
Trèo mấy tầng núi cao
Buổi chiều
Ông mặt trời ngả lưng sườn dốc
Con Mang
Tìm mó nước khe sâu
Con Sóc chuyền cành
Cây không lay động
Con Sóc leo cây
Chiếc lá không rung
Con Sóc luồn rừng
Không để dấu chân
Con Sóc nhảy khe
Không nghe để tiếng
Tiếng con hổ gầm
Hổ ở rừng gần
Tiếng con Voi thét
Voi ở núi xa
Đi bẫy, đi săn
Biết gà hoang, gà bản
Biết lối có nhà
Biết lối đi nương
Con suối cạn
Lũ ống lở đá
Con nước lặng
Ẩn giấu dòng sâu
Xuống đường dốc
Gậy chống phía trước
Leo đèo cao
Gậy đẩy phía sau
Ăn rau rừng
Tìm lá sâu bò sâu đục
Uống nước cây rừng
Tìm ống nứa, ống tre
Ngủ rừng
Làm sàn kê, sàn đỡ
Đốt lửa hồng, lửa đỏ thâu đêm
Thú hoang đại ngàn biết sợ
Thú lạc rừng lạ còn e
Thợ săn biết người làm dấu
Người lành lỡ đường còn thương
Dân mình sáu mường, mười bản
Còn mãi gần nhau một sắc áo chàm
Vất vả ngược, xuôi chẳng quản
Thương người như thể thương thân
Đường dài nước muối ngâm chân
Lo chăm thuốc bài mỏi gối
Tìm câu ân cần hỏi han
Bữa ăn, giấc ngủ ấm hơi
(1)Thơ Hằng Tâm - Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Sơn La
(2)Người Xá thường làm nhà ở đầu nguồn nước: Ta xả
(3)Han: Cây ngứa như bị nọc sâu bọ nẹt
*
* *
Kể chuyện bốn người tù
Giả làm người Thái
Anh Giá nhận ruột thịt họ hàng
Đến Pắc Ngà
Sông Đà sóng dữ
Chuyến viếng thăm
Cách trở nghìn trùng
Con nước lớn
Gầm gào hung tợn
Cuốn đổ cây rừng
Hất trôi xuống vực
Sông không cho ai cất tiếng gọi đò
Con nước đỏ hận lời thách thức
Đường Tà Hộc
Biết bao khó nhọc
Lại vượt rừng
Rẽ lối Chiềng Đông
Phần thì tránh
Quân thù truy nã
Phần phải lo
Ứng phó thành công
Đoàn tù chia làm hai nhóm
Nhóm đi đầu
Anh Giá
Anh Hiểu
Anh Trân
Xuyên rừng như người mường bản
Thăm ong
Tìm cột
Hái măng
Chuyện trò nói bằng tiếng Thái
Anh Giá gặp quan quản người H’Mông
Xin gạo nấu ăn
Mời hai người bạn
-“Canh giùm quan quản bọn tù cộng sản
Chúng vừa vượt ngục trốn mấy hôm nay
Chắc chúng sẽ qua đây sớm tối
Mày nhớ phải tận tay khám xét
Súng ngắn hai khẩu chúng giấu trong người
Nhớ đếm đủ 100 viên đạn
Bắt được nó ta thưởng nhiều à
Muốn thứ gì quan trên cũng có
Đến giờ quan phải tìm chỗ nằm
Cơn thuốc phiện đang làm quan đói”
***
Lại nói chuyện
Người ở phía sau
Nhóm
Anh Bằng
Anh Đáng
Giả làm người đi buôn
Cuộc đời gian truân vất vả
Kiếm ăn lần hồi qua ngày
Ngược xuôi
Bán diêm, bán muối
Mua nấm, mua măng
Đổi sa nhân, cánh kiến
Trăm bản, mười mường
Quen chân tìm đến
Lưu lạc xứ người
Trải khắp muôn nơi
Chợt vó ngựa
Từ đâu phi tới
Thằng tri châu
Trừng mắt quát hỏi:
-“Chúng mày bốn thằng sao chỉ có hai
Hai thằng nữa ở đâu khai báo”?
Anh Bằng ngọt ngào dạ thưa:
-“Hai anh em tôi
Ngược xuôi buôn ngược
Muối vừa bán hết
Diêm ế mấy bao
Đây! Quan lớn tri châu xem ạ!”
Thằng tri châu ra lệnh khám xét
Tra hỏi giấy tờ rồi nói bâng quơ
-“Các ngươi đi đâu?
Quen ai xứ Thái?”
-“Dạ! bẩm quan
Chúng tôi về Hà Nội
Lo vội cất hàng
Rồi lên gặp cụ
Cụ xứ Tùng là chỗ người nhà
Chắc quan ngài biết danh cụ xứ”
Hắn chớp mắt đổi giọng hiền từ
-“Ừ ta biết cụ cai lục lộ
Nhớ lần sau có giấy cụ cho
Nơi ăn nghỉ vào nhờ Phìa Tạo
Truyền lệnh tri châu
Làm cơm đãi khách”
Hai anh em xiết đỗi mừng thầm
Chắp tay cúi chào quan châu lễ độ
*
* *
Đường Tà Làng nhẹ đỡ bước chân
Tối ung dung ngủ nhà quan bản
Một ngày đến trạm Mường Sang
Cao nguyên nắng vàng rực rỡ
Đỉnh Pú Luông năm người gặp gỡ
Giọt nước mắt nào xúc động rưng rưng
Giao lao biết mấy dặm đường
Rèn luyện trí can trường cộng sản
Cuộc họp bàn dưới vòm tán lá
Anh Giá làm người lính gác canh
Đường giao liên quen thuộc chân anh
Đất nở hoa lộc biếc đơm cành
*
* *
Nhóm anh Giá rảo chân đi trước
Màn sương mù che khuất non xa
Chiều bản Bông khói ấm mái nhà
Xua giá lạnh một miền sơn cước
Đêm yên tĩnh
Đất người xứ lạ
Nghe xôn xao
Anh Giá nhớ bản mường
Quê hương ơi
Sắp gặp người thương
Em mỏi mòn
Chờ trông
Ngóng đợi
Ngày mai
Đích cuối cùng Suối Rút
Việc riêng chung
Vẹn cả đôi đường
Anh xa em
Càng thêm nhung nhớ
Càng gần em
Yêu em nhiều hơn
Một đôi lời
Cha muốn nói với con
Con thơ nhỏ con ơi có thấu
Cha nhớ con
Nhớ từng hơi thở
Hương sữa thơm nồng ấp ủ môi son
Con ngoan hỡi
Chớ khóc tủi hờn
Cha kể nhiều chuyện vui con nhé
Con ngoan à
Nằm trên lưng mẹ
Say ngủ giấc nồng
Con ngoan ơi con
Đường cha đi
Lội suối trèo non
Dồn nhịp bước
Cùng anh em đồng đội
Non sông
Núi rừng
Ngóng đợi
Người thương khắc khoải
Chờ mong
Nẻo đường nhỏ
Cỏ giấu lối chân
Thác đổ
Rêu mờ
Sương đọng
Bản làng chìm trong mây xám
Mạng người lưu lạc rừng xanh
Cha đã thấy tương lai ngời sáng
Nắng hồng tươi
Ngọn gió thơm lành
Con khôn lớn
Vui trường vui bạn
Gom bàn tay xây dựng quê hương
*
* *
Gà gáy sáng
Giờ lên đường chặng cuối
Suối Rút đôi bờ ngàn kiếm mía vút cao
Sông Đà âm vang
Sóng vỗ rì rào
Nhớ thuở
Vua Lê lên Ải Bắc
Bầy giặc xâm lăng
Lũ quân nghịch tặc
Nợ máu xương
Bay phải trả đền
Ơi Kim Bôi!
Rừng thiêng nước độc
Đày ải Sơn La
Chớ hòng khuất phục
Hào quang Khâu Cả
Tỏa rạng trời xa
Người cộng sản
Biến nhà tù thành trường học
Lửa luyện thép từ trong lao ngục
Lửa ấm tình đồng chí nhân dân
Lửa bừng bừng hờn căm sôi sục
Thiêu cháy quân thù bằng dũng khí tiến công
*
* *
Giờ phút chia ly
Đôi ngả đôi dòng
Ba vòng tay ôm
Tuôn trào nước mắt
Từng tiếng nấc
Chen lời thầm nhắc
“Giá trở về lánh tạm vùng cao
Chờ dịp chúng tôi cho người liên lạc
Đón Giá vào lớp học đánh Tây
Lật đổ ách Tạo, Phìa tàn ác
Lãnh đạo đồng bào giải phóng quê hương
Đường chúng ta đi
Giữ gìn bí mật
Cho nhiều lần vượt ngục về sau
Cách mạng luôn ghi nhớ công lao
Người thanh niên Thái
Quên mình vì sự nghiệp
Gian khổ gieo neo là đường kháng chiến
Giá kiên cường dũng khí đấu tranh
Ngày mai
Hoa nở thắm cành
Xuân đất Việt
Hẹn kỳ hội ngộ
Đế quốc, sài lang bạo tàn lật đổ
Tổ quốc mình
Rạng rỡ non sông…”
*
* *
Thuyền vừa rời bến xuôi dòng
Anh Đáng
Anh Bằng
Cũng vừa kịp đến
Anh Giá chào hai anh
Nghẹn ngào từng tiếng
Giơ bàn tay
Vẫy mãi không thôi
Giờ phút cuối
Nói sao cho hết
-“Phải đành xa anh Giá rồi sao”
Bốn cánh tay
Vẫy chào tạm biệt
-“Các anh đi xin cứ yên lòng
Đừng lo cho tôi
Cầu nguyện các anh đi
Mãi được bình yên”
*
* *
Sông Đà ơi!
Giùm ta hãy nói
Giây phút thiêng liêng
Trời hết thương rôì
Còn suối Nậm La
Còn đồi Khâu Cả
Còn núi Hài - Bó - Cá
Còn cây đa bản Hẹo
Còn rồng thiêng đậu núi bản Lầu
Xót xa cuộc chia tay
Không ngày gặp lại
Không còn nhau mãi!
*
* *
Con cá hồi
Vượt ghềnh, vượt thác
Đại bàng bay
Ngược đỉnh ngàn xanh
Đường dài
Vạn nẻo uốn quanh
Núi tiếp núi
Suối khe cản lối
Những ngày rau cháo cầm hơi
Chân chồn
Gối mỏi
Bùn lầy
Bùn trơn
Mưa rừng
Tuôn xối
Một mình lầm lũi
Khăn vắt ngang vai
Quản chi khó nhọc đường dài
Gian nan thử sức
Chí trai anh hùng
Con cá lớn vẫy vùng sóng cả
Con chim khôn lượn chín tầng mây
Cây ban trải tháng ngày rét giá
Trắng núi rừng tỏa ngát hương bay
*
* *
Rừng Mộc Châu chiều nay đẹp quá
Hoa Pặc Piền nép bờ vực đá
Đóa lan nào ngào ngạt đắm say
Chiếc khèn lá trên tay khẽ hát
Cây chò chỉ đội sương mù đỉnh núi
Lim, sến, màng tang
Trùng điệp ngút ngàn
Cây dổi, cây dâu
Vượn nhảy đua đàn
Con Vẹt, con Khướu
Tranh tổ trên cành cất tiếng kêu vang
Con suối vắng
Hòa lên khúc nhạc
Gió Pơ Mu
Vi vút
Ngân ru
Chim Từ quy
Nơi đâu hót lạc
Chim bìm bịp
Sà ngang đám lá mây, song
*
* *
Bản mình từ ngày có thằng giặc Pháp
Không còn cây gỗ làm nhà
Chúng phá rừng làm củi đốt
Nấu gạch
Nung vôi
Mở rộng nhà tù
Xây lâu đài
Đồn bốt
Tòa công xứ
To bằng quả núi
Bao bọc bốn bề
Cổng kín
Tường cao
Nhà Tạo, Phìa
Dãy dọc
Dãy ngang
Tìm gỗ quý
Lát sàn
Ngăn vách
Dân nghèo
Trú lều
Ở lán
Phên tre
Vách nứa
Cành lau
Cỏ sậy
Tạm che
Dãi dầu bốn mùa mưa nắng
Xót xa cảnh đời cay đắng
Phận hèn
Nhà dột
Cột xiêu
Cha mẹ thương anh cho thôi ở rể
Lo dựng lều chắn gió đậy sương
“Đàn ông cái nhà, đàn bà cái bếp”
Anh gắng sức mình
Đẹp lòng vợ yêu
*
* *
Còn gì thiêng liêng hơn lời Đảng gọi
Giải phóng nước nhà tranh đấu vì dân
Muôn triệu người lầm than cơ cực
Ách nô lệ
Nhà tan nước mất
Nợ giặc thù
Đền trả không thôi
Thương thay bao kiếp con người
Điêu linh phải chịu một đời đắng cay
Nhớ có lần anh Hiểu, anh Trân đã nói
Dặn dò anh chăm sóc mẹ con em
Thương mẹ cha tuổi già bóng xế
Việc riêng chung gắng làm tốt hơn
Chúng ta chỉ một con đường
Hăng say đánh giặc, yêu thương đồng bào
Cuộc đời mới xuân trào phơi phới
Khắp bản làng múa hát mừng vui
Tương lai tươi đẹp rạng ngời
Độc lập - Tự do - dân mình no ấm
Có tiếng hát nào ngàn xa mời gọi
Nhanh nẻo bước dồn quê nhà ngóng đợi
*
* *
Chặng đường ngược Đông Khùa, Song Khủa(1)
Sương mù giăng
Lạnh ướt áo anh
Mưa xác thối
Bùn trơn bước vội
Vắng bóng nhà
Không chốn dừng chân
Không người qua lại hỏi thăm
Đất người xứ khách một thân miệt mài
Khe Lắc Kén, suối Tà Vài(2)
Gió Lào Yên lị
Dốc dài lửa hun
Nẻo xa hoa mắt chập chờn
Cò Nòi bước mỏi
Nặng dồn đôi chân
Mai Sơn chặn cuối tới gần
Chiềng Lề phố cũ người thân ngóng chờ
Con đường quen thuộc tuổi thơ
Cây đa bản Hẹo trăng mờ hơi sương
Bó Củng con nước rưng rưng(3)
Ngân vang tiếng hát người thương vỗ về
Rì rào gió thổi hàng tre
Thoảng nghe khúc nhạc đồng quê vào mùa
Suối dài biếc ánh trăng khuya
Lẻ loi chim lạc bay về rừng xa
Nhớ nhiều ánh mắt thiết tha
Ngạt ngào hương bưởi vườn nhà vấn vương
Đêm sâu chiếc bóng dặm trường
Một mình anh lắng mó nguồn thẳm sâu
Các anh ơi!
Ở nơi đâu?
Nhịp cầu kia!
Biết gặp nhau bao giờ?
Thuyền đi có bến có bờ
Núi Hài còn đó vẫn chờ đợi ai
Tiếng gà vừa giục canh hai
Lời thương gọi cửa: “Liên ơi anh về”
Đôi tay ngà ngọc lửa nhen
Thương chồng giọt lệ giàn hoen má hồng
“Thôi em,! Em hãy cầm lòng
Bên nhau thỏa nỗi nhớ mong tháng ngày
Chúng mình còn cả tương lai
Yêu em anh nguyện xứng người em yêu”
“Xa con kể cũng đã nhiều
Anh đi nghỉ để con theo hơi mình”
“Nhìn con gương mặt xinh xinh
Thơm nồng hương sữa ấm tình mẹ con
Cảm ơn em vẹn lòng son
Cho anh hạnh phúc vuông tròn giấc mơ”
“Nghe lời chưa hết âu lo
Rạng ngày quan bắt phải cho phủ hầu
Chắp tay xin được nguyện cầu
Lứa đôi dù bạc mái đầu còn nhau
Nghĩa tình trọn vẹn trước sau
Piêu hồng gìn giữ đẹp màu yêu thương”
Dù cho xa cách nghìn trùng
Lời thề còn đó tơ lòng còn vương
Em nhớ từng lời
Câu chuyện thuở xưa
Mười sáu, mười bảy
Tuổi em vừa lớn
Tình cờ
Gặp em bên suối
Lời thương anh chưa kịp nói
Lá hát rì rào
Mây nước lặng trôi
Hàng tre nghiêng mình xõa tóc
Em thẹn thùng
Ánh mắt anh đắm đuối
Giẫu nỗi lòng
Em yêu say mê
Mỗi lần em gội đầu khe mó
Ống bương, ống bầu
Anh ghé hứng thật lâu
Anh khen đôi tay em ngà ngọc
Bóng anh đổ dài che bờ vai em
Em nhớ có lần anh ôm ngực em
Vuốt nhẹ mái tóc bờ vai buông xõa
Anh nói
Suốt đời anh yêu em mãi
Như sao Khun Lú, Nàng Ủa trên đỉnh núi Hài
Núi Hài ngàn năm
Soi mình bên suối
Dòng Nậm La ngân khúc tình ca
Anh nói
Mỗi lần anh xa quê hương
Anh nhớ lắm cánh đồng, mó nước
Anh gọi em là hoa của mường của bản
Anh giữ trọn hình em trong trái tim anh
Em lặng nhìn anh giấc ngủ thật êm
Gương mặt con giống anh đến thế
Anh bảo con làn da giống mẹ
Đẹp mịn như hồi em vừa lớn lên
Hơn mười ngày anh đi
Em ngóng đợi
Từng đêm khắc khoải
Ngọn đèn khuya
Cùng em thao thức
Anh thương ngôi nhà
Tay em vun vén
Thơm hương rượu nồng hơi ấm lửa nhen
Ánh mắt em tha thiết dịu hiền
Như mó nước tắm hồn anh trong mát
(1)Địa phận huyện Mộc Châu
(2)Địa phận huyện Yên Châu
(3)Bó Củng nghĩa là mỏ tôm, mùa mưa tôm đến rất nhiều.
*
* *
Chợt tiếng quát
(Khiến lòng Liên tan nát)
-“Thằng Giá đâu?
Phải dậy cho mau!
Mày đưa đường bốn tên tù Cộng sản
Giải nó đi lên phủ nộp quan”
Liên kêu khóc:
-“Chồng tôi bị oan!
Chồng tôi chỉ biết lo làm ăn
Gánh hàng thuê vào Chiềng Khương, Mường Hung
Chồng tôi không làm gì nên tội
Không được bắt chồng tôi!”
Thằng quan bản sai hai thằng lính dõng
Trói cùm anh Giá tại nhà
Đẩy anh xuống cầu thang mờ tối
Liên vào buồng ôm con chạy vội
Nghẹn ngào từng tiếng rã rời
“Anh ơi…
….mẹ con em…
…thương anh nhiều lắm…!
Anh Giá ngoảnh nhìn mẹ con lần cuối
-“Em yên lòng
Anh không làm gì sai trái
Rồi anh sẽ trở về nay mai”
Con đường nhỏ bóng anh dần khuất
Liên dõi nhìn mắt lệ chứa chan
Liên ôm con trong lồng ngực ấm
Giọt nước mắt tràn trên gương mặt con
*
* *
Dinh quan phủ Cầm Ngọc Phương
Dãy dọc mười hai gian
Tám gian nhà ngang hình thước thợ
Ba năm sơn tràng
Kiếm gỗ Mường Sang
Gỗ dâu, gỗ chò
Vực sâu núi đá
Năm năm tìm
Gỗ lỉ, gỗ sâng
Rừng Bó Mười, Cao Pha
Đường trơn
Chân đất
Vai trần
Khiêng vác
Mây, song Mường Chiên(1)
Năm ròng kéo rút
Xuôi Sông Đà
Bến Tạ Bú chất kho
Trăm phu phen
Dựng nhà mười năm
Nghìn người lo phục dịch chưa hết việc
Nhà thuê người trồng hoa, xén cỏ
Sỏi đẹp Kim Bôi rải lối
Trăm lồng to nhốt chim kêu vượn hót
Vượn lông đen tay dài đánh võng
Khỉ mặt trắng, mông đỏ trèo đu
Chim Tắng lo
Tiếng vọng xa xa
Chim Tơ rộc
Tiếng gù khe khẽ
Con Yểng
Biết nói tiếng người
Con Khướu
Gọi mặt trời buổi sáng
Con Sóc đuôi bồng
Nhảy nhót trong lồng
Con Cầy hương
Chân xích buộc cột
Con Hươu
Vướng chà nằm cũi
Con Gấu
Thò tay ô lưới sắt xin ăn
Con mương, con máng
Dẫn nước quanh vườn
Con nước đến hồ rộng giữa cánh đồng
Hồ rộng
Người cuối bờ khó nhìn thấy bóng
Ở giữa có hòn đào nhỏ thê thiếp tri phủ nằm chơi(2)
Tri phủ đi một bước
Có người hầu hạ
Tri phủ nằm nhà
Có người gác canh
Chỉ huy đội lính dõng
Là thằng cai Bánh
Khét tiếng bạo tàn
Uống máu người không tanh
Hắn trung thành như một con chó
Con chó quen hơi thuộc tính ông chủ
(1)Thuộc huyện Quỳnh Nhai
(2)Hồ này, nay thuộc Công ty Thủy sản I Sơn La.
*
* *
Thằng Chánh xứ Cút Xô
Lệnh cho thằng Phương tri châu:
“Phải bắt thằng Giá
Khảo tra
Xét hỏi
Buộc nó nhận là thằng có tội
Đưa tù Cộng sản trốn về vùng xuôi
Có thế tôi có thể ở được với ông
Ông không có cớ gì mất chức
Cùng thằng cai Bánh
Còn tìm được gái
Được nằm hút thuốc phiện thâu đêm
Được nâng ly dưới ánh đèn màu
Ngắm lưng ong, ngực tròn con gái Thái
Quan trên không trách
Ông không trị được dân bản bản xứ
Còn khen chúng ta
Ban thưởng bạc vàng”
*
* *
Tri phủ Cầm Ngọc Phương
Cổ thắt caravat
Mặc complê
Ve áo dài Bắc đẩu bội tinh
Ngồi dưới ảnh Bảo Đại
Bên trên treo cờ tam tài
Hai bên hai thằng
Thông phán, thư ký
Giọng ôn tồn, thương người
-“Cháu Giá!
Trót dẫn đường Cộng sản
Trốn theo đường nào
Nói quan tha tội”
-“Dạ!
Cháu chỉ đi buôn
Cháu không đưa tù đi trốn”
Tri phủ Cầm Ngọc Phương
Đổi giọng cầm thú
-“Tổ chức tay nóm chất mương
Có những đứa nào?
Khai mau!
Nếu không mày sẽ bị róc xương”
-“Bẩm quan lớn!
Cháu không biết ạ
Cháu chỉ biết làm ăn lương thiện
Chăm nuôi vợ yếu con thơ”
Hắn cười
-“Hơ!Hơ!
Giá ơi!
Tao bắt được mày
Mày không sống được rồi
Mày khai ra tốt hơn cho tao
Mày không khai
Tao cũng làm được câu
Người Thái trị vì người Thái
Chức quan châu tao giữ được
Ngài chánh xứ Cút Xô hẳn ngài rất vui”
*
* *
-“Cai Bánh đâu”?
(Bánh thò mặt nhe răng)
Cười “Ục!Ục!
Dạ! Con!
Con luôn là chân tay của cụ”
Tên đao phủ trần gian
Trổ món nghề quen thuộc
Đòn roi tới tấp
Đánh bất cứ chỗ nào
Đánh bằng cái gì tùy ý thích
Cành cọ
Mây đất
Mạy lụi(1)
Roi da bò
Cuốc chim
Cùi tay
Đầu gối
Sáng
Trưa
Chiều
Tối
Con chó săn còn non
Vừa chạy vừa tập cắn
Đi nửa quả đồi
Thấm mệt
Qua một chặng suối
Đứt hơi
Con chó săn khôn
Chạy trước vó ngựa
Cẳng lùn
Mõm ngắn
Răng cùn
Xông pha
Không ngại thú lạ
Không quản rừng thẳm suối sâu
Trung thành theo lệnh chủ
(1)Mạy lụi: Có nơi còn gọi cây cán gáo, có đốt, tròn, cứng
*
* *
Thằng Bánh vừa đánh vừa nói nửa mồm
-“Phải đánh!
Đánh thật nhiều tao mới tỉnh rượu
Tỉnh rượu
Đêm còn đi bản tìm gái
Quan phủ cho tao mượn ngựa đẹp
Quan phủ cho tao cưỡi ngựa khôn
Chơi gái bản gần
Như uống rượu cần chua nhạt
Chơi gái bản xa
Rượu ngọt sôi lên cần trúc
Quan lớn giao cho tao
Được khóa hầm bia
Quan lớn giao cho cả tủ rượu quý
Dưới bếp đầy thịt con nai, con nhím
Quan thù lao bồi dưỡng cao trăn, mật gấu
Quan thưởng cho tao nhiều dây xà tích
Quan ban cho tao nhiều bạc vàng, chức tước
Giá ơi!(1)
Số mày khổ rồi
Mày sinh vào năm đói
Cả đời mày đói
Mày đói
Không được một miếng ngon
Tao là thằng được sung sướng
Được làm quan to
Nhiều tiền
Được nhiều gái yêu
Được đánh mày nhiều
Đánh mày nhiều
Quan tao hả dạ
Đánh!
Đánh để mày khai ra
Tổ chức Tay nóm chất mương
Đường dây tù Khâu Cả
Chúng nó là những đứa nào?
Chúng nó trốn ở đâu?
Khai mau!
Khai mau!”
Hắn càng đánh càng gào
Hắn cành gào càng đánh
Anh Giá mặt tóe máu
Người nhũn như tàu ráy nướng
Tiếng rên
Lịm dần…
Lịm dần…
-“Bọn bay!
Lấy nước cống ao
Dội vào cho tỉnh”
Thắng Bánh lại đánh
Roi da bò lằn tím thân mình
Roi da bò nhuộm đỏ máu anh
-“Đánh!
Cứ đánh!
Đánh cho bao giờ khai ra mới chịu”
Hơn mười ngày đường xa sức yếu
Anh ngất nhiều lần trong trận mưa roi
Tiếng thằng tri phủ thủ thỉ bên tai:
-“Quan thương cháu mảnh khảnh nhỏ gầy
Thằng Bánh đánh cháu nhiều
Chắc cháu bị đau
Cháu khai ra đi thì cháu được sống
Cháu còn trẻ
Vợ đẹp con thơ
Cháu là người có học
Cháu khai ra đi
Khai ra rồi quan tha tội
Quan ban cho nhiều bạc, nhiều vàng
Tìm cho việc làm
Gần dinh quan phủ
Rồi cháu sẽ có nhà cao cửa rộng
Có của ăn của để dư thừa”
Anh Giá gượng từ từ đứng dậy
Chắp hai tay trước ngực: “Thưa quan!
Cháu không đưa tù đi trốn
Cháu không biết hội Tay nóm chất mương”
Rồi anh đổ xuống
Như cây rừng lao thác
-“Bay đâu!
Ném xác hắn vào nhà ngục
Không kẻ nào được cho ăn, cho uống
Không thuốc thang
Không chiếu chăn
Không kẻ viếng thắm
Cùm khóa chặt
Canh phòng cẩn mật”
(1)Giá:Tiếng Thái nghĩa là đói
*
* *
…. “Mẹ ơi!
Đêm nay con gọi mẹ
Mười bốn năm qua
Con mơ gặp
Then trời ơi
Xin đừng đóng chặt
Cho con gặp một lần thỏa nguyện
Thuở ấu thơ
Mẹ vội bỏ con đi
Nay con lớn
Con tìm về với mẹ
Công ơn cha
Con chưa đáp đền
Phận chưa tròn
Nhờ dâu hiền chăm đỡ
Hai cháu lớn khôn
Ngày càng ngoan hơn
Từ ngày chú thím
Đón hai anh em con về nuôi
Ơn dưỡng dục lòng con ghi nhớ
Ngôi nhà đất con chưa sửa sang được
Đất bảo Cọ mình nặng nước mắt cha ông
Con đường mòn con tìm dấu chân
Lối thưở xưa cha đi nương, đi rẫy
Bờ ruộng, bờ ao, sườn non, đầu suối
Bòng hình cha cho con gặp một lần thôi
Liên ơi!
Sợi mây rừng đầu sàn anh chưa kịp chuốt
Buộc bậc cầu thang lỡ em bước trượt
Anh không được cùng em
Sau buổi lên nương
Ra mó nguồn lấy nước
Hương bưởi thơm làn tóc em bay
Hôm nào anh cầm tay em ngà ngọc
Ánh trăng ngời lên mắt em
Anh nói suốt đời yêu em mãi thôi
Anh nhớ bao lần gần em bên bếp
Em chẻ bó đóm tre ngâm
Ánh lửa hồng ửng đôi má thắm
Mùa xuân ngập ngừng bước bên cầu thang
Con họa mi cất tiếng hót vang
Ôi sao anh nghĩ đến nông nỗi tái tê
Không được cùng em nuôi con khôn lớn
Anh không còn được nghe tiếng các con nô đùa
Nghe lời nuông chiều âu yếm con thơ
Các con yêu ơi!
Khi lớn lên các con thấu hiểu
Nỗi lòng cha yêu thương dành cho con
Cha mong các con có mùa vàng trái chín
Dậy hương thơm mật ngọt dài lâu
Từ nỗi lòng rung động thẳm sâu
Cha biết ơn anh em tù Khâu Cả
Bác Hiểu, bác Trân cưng chiều con lắm
Dành phần quà tù ngục đến thăm
Bác ân cần chăm sóc hỏi han
Khi khôn lớn các con về thăm Bác
Khắc ghi những lời Bác dạy khuyên
Anh Uốn kính yêu của em ơi!
Sao anh không sợ hiểm nguy
Vượt hàng rào lính đêm canh gác
Anh đưa cơm cho em ăn
Nấm nướng, măng rừng bản Cọ
Cá vùi than tro
Có phải Liên bận con thơ
Nhờ anh đưa giúp?
Anh lo cho em chưa có ngôi nhà
Bàn với nội ngoại họ hàng quyên góp
Anh khuyên nhủ em
Tìm nương
Tỉa ngô
Trồng sắn
Gắng làm thuê
Dạy học vùng xa
Đỡ đần giúp Liên nuôi con khôn lớn
Có chí vươn lên nối nghiệp cha ông
Anh Bằng
Anh Đáng
Anh Hiểu
Anh Trân
Có thể em không được gặp lại các anh
Dù cảnh đời tối tăm tù ngục
Em mong các anh được mãi yên lành
Em mong các anh được mãi tự do
Một mình em về nơi chín suối
Em nhớ các anh
Cây nêu đẹp giữa trời
Em gọi các anh
Khi hồn em về thăm bản
An ủi niềm thương giúp Liên vượt qua
Các anh về thăm em đấy ư?
Không!
Không!
Không bao giờ các anh bị bắt!
Con đường đấu tranh dù máu chảy đầu rơi
Dù bão tố phong ba mây đen phủ tối trời
Ta sẽ thắng!
Lũ giặc kia phải chết!
Dù kẻ địch có dã man tra tấn
Em quyết không khai ra đâu
Kẻ thù đừng hòng buộc em khai
Nhằm giết hết các anh trong ngục
Anh Thinh
Anh Phụi
Anh Xuân
Tổ chức Tay nóm chất mương
Gắng làm thay việc của em
Có thể em bị chúng hành hình
Em tiếc tuổi trẻ của mình
Chưa cống hiến được nhiều cho cách mạng
Bản mường còn chịu cảnh lầm than
Đêm tối mịt mù
Bao bóng ma rình rập
Em muốn ngắm ánh trăng
Ánh trăng nhìn em qua khe cửa thấp
Ánh trăng ngời lên trên đỉnh núi Hài
Chân tay của em kẻ thù khóa chặt
Sao toàn thân em ê chề buốt nhức
Chừng như xương khớp rụng rời
Thằng Bánh đánh em suốt cả ngày qua
Giờ tỉnh lại em biết mình còn sống”
*
* *
Hơn hai mươi ngày chúng tắm anh trong máu
Trăm phương ngàn kế, dụ dỗ khảo tra
Nợ nước, thù nhà càng thêm chồng chất
Rạng ngời tấm gương bất khuất kiên trung
Một lòng một dạ, vì nước vì dân
Tình riêng vằng vặc mảnh trăng cuối rừng
Hai mươi bốn tuổi xuân đi vào lịch sử
Một mốc son trước Cách mạng thành công
*
* *
Kể chuyện
Thằng cai Bánh
Thằng tri châu Cầm Ngọc Phương
Thằng chánh xứ Cút Xô
Bộ ba họp ở dinh quan phủ
-“Kính thưa ngài Chánh xứ!
Vâng lệnh ngài
Bản phủ hơn hai mươi ngày qua
Đã khảo tra tên Lò Văn Gía
Hắn một mực nhất quyết không khai
Không nhận là người đưa tù đi trốn
Không nhận là người “ Tay nóm chất mương”
Nay!
Xin ngài ý kiến
Cho biết đường phủ quan xử lý”
Dứt lời Cầm Ngọc Chương
Thắng cai Bánh cúi mặt, quì gối
-“ Thưa hai ngài cấp trên
Dạ!Bánh tôi có tuổi nghề thâm niên
Dốc hết sức mình tròn bổn phận
Tận tụy công việc được giao
Đánh thật nhiều buộc thằng Giá khai báo
Dụ dỗ đường mật trăm nghìn thủ đoạn
Phải đành bất lực thua tên Cộng sản nòi
Hắn đã đượn bọn tù tôi luyện
Qúa đỗi thành công
Khí phách anh hùng”
Bánh lặng tiếng nhìn thằng Chánh xứ
(Chừng như hắn vừa lỡ lời)
Thằng Chánh xứ giấu mặt dửng dưng
Chau đôi mày
Thành một đường kiếm sắc
Hắn đưa tay lên cằm
Kéo một vạch ngang
Tay kia cầm mũ quẳng xuống đất
Thằng Bánh hồn xiêu phách lạc
Tưởng mình bị cắt cổ trôi sông
“Dạ!Dạ!
Xin ngài rộng lòng độ lượng!”
Hắn bừng tỉnh
-“Dạ!Dạ!
Con đã hiểu
Xin vâng lời ngài truyền dạy”
*
* *
Trời miền Tây
Ngững ngày cuối hạ
Cái nóng oi nồng báo hiệu cơn mưa
Cơn mưa cuối mùa thường khác lạ
Buổi sáng ông mặt trời nhô lên sườn núi
Con “bắt cô trói cột” ngân vọng thung xa
Con Tắng lo mỏ vàng lông màu chả
Chợt vụt cánh bay qua
Đậu xuống ngọn đa
Phồng mang kêu hót
Tiếng chim não ruột lòng người
“Trời ơi…trời ơi…trời ơi…”
Con chim gáy
“Cúc cù cu…cúc cù cu”
Từ rừng loi bản Cọ
Vắt qua cánh đồng
Qua dòng suối Nậm La
Người xa nhà muốn rơi nước mắt
Anh Giá khát khao
Được về thăm
Những người thương yêu thân thiết
Nhớ lắm thương nhiều
Ơi, bản Cọ ơi!....
*
* *
Thằng cai Bánh
Tay cầm con dao
Tay cầm cây roi
Đai ngang lưng
Khẩu súng ngắn
Trong bao da bò bóng loáng
Hắn cùng ba thằng lính dõng
Áp giải anh Giá
Từ dinh quan phủ
Xuôi đường Mường La
Dừng lại
Ngang cầu bản Cá
-“Giá ơi!
Tao cho mày xuống tắm
Chắc đây là lần mày tắm sướng nhất trong đời
Mày có thích tắm ở Cầu Đá không(1)
Hay thích tắm hang Thẳm Tát Tòng(2)
Vừa bơi vừa gõ nhũ nhạc
Men bờ vách dựng
Thả mình bay trong không trung?
Thôi! Mày nên tắm chỗ này
Có nhiều người đi qua nhìn thấy
Mày nhìn thấy họ
Mày có sướng không?
Tao chiều mày
Tao phải mài con dao
Con dao quý của tao
Lâu chưa được mài
Con dao Mèo
Chắc nhà mày chẳng có
Việc của mày hôm nay
Phải đi nhổ cỏ
Mộ quan Tây
Giao cho phủ chăm nom
Luôn phải biết làm đẹp lòng ngài chánh”
-“Mộ ngài là người dày công khai hóa
Đem ấm no cho mường bản ta
Quê ngài ở phương trời xa lạ
Mẹ cha ngài gửi nhờ đất chôn”
Nhà ngươi phải làm cho ta nổi tiếng
Bằng cái chết của người chăm mộ phần
Đã nhắm mắt bên mồ quan Pháp.
Mộ thằng quan Pháp
Nằm dưới vách đá nghiêng nghiêng
Tảng đá chờ ngày rụng sập
Vệt cây rừng in những hằn đen
Tảng đá loang màu rêu trắng
Dây rừng bò như một bầy trăn
Ngoằn ngoèo thả mình đu đưa trước gió
Đêm đêm nghe tiếng mèo hoang
Sơn dương, lợn rừng húc ủi
Trâu bò qua lại giẫm đạp
Chó đẻ, cỏ xước đua nhau mọc
Muông thú ăn quả rừng gieo hạt
Chuột hôi làm tổ lùm gai
Cụ già bản Cá kể lại
Nơi đây là nghĩa trang
Ghi nhớ một thời ông cha chống ách ngoại bang
Muôn vạn người dựng cờ khởi nghĩa
Chống quân bạo tàn
Giải phóng quê hương
Bao anh hùng đời đời yên nghỉ
Pháo đài Dua Cá uy nghi trầm mặc(3)
Cánh đồng Sam Kha thầm nhắc(4)
Hát mãi bản trường ca bất khuất anh hùng
Tươi đẹp muôn lần tổ quốc non sông
Mồ thằng quan Pháp
Không kẻ viếng thăm
Chỉ những tù nhân lao dịch giam cầm
Bị ép đi làm quang nhổ cỏ
Mộ thằng quan tây
Cỏ làm dang dở
Bỏ một lối dọc bằng nửa đường bừa
Bỏ một lối ngang bằng ba bước trẻ
Mây đen dồn từ Cao Pha, Co Thé
Mây trắng đổ từ Bó Mười, Chiềng Đen
Sấm vọng vang núi Hài
Sấm rền khe Phiêng Ngùa
Gió lùa rừng măng loi, măng dê
Gió xô lùa rừng tre rừng nứa
Tiếng gió nghe ù ù
Tiếng gió nghe ào ào
Thằng Bánh gọi giật lời:
“Giá ơi lại phía cây ổi
Giá ơi về nơi gốc bưởi
Trời muộn rồi tao phải ăn trưa”
Anh Giá đi trước
Ba thằng lính dõng theo sau
Thằng Bánh vòng quay lại
Thình lình tiếng súng nổ
Anh Giá khựng người
Chợt anh vươn thẳng dậy
Quay trừng mặt thằng Bánh
Anh giật tung ngực áo
“Mày bắn đi! Bắn đi!
Thằng phản nòi hại nước
Mày giết một mình tao
Không thể giết được phong trào cách mạng
Cách mạng nhất định thành công
Lũ chúng mày phải đền nợ máu!”
Thằng Bánh như điên như dại
Hắn gầm lên những tiếng thú hoang
-“Chúng mày! Bắn đi! Bắn đi!
Bắn thật nhiều vào hắn!”
Loạt đạn rền vách đá
Dáng anh vòi vọi trời cao
Ngực anh trào máu thắm
Giờ phút cuối cùng anh đổ xuống
Đôi mắt hờn căm không nhắm
Nhìn về phía đồn Tây
(1)Cầu Đá: Cầu bằng đá rất đẹp, đường vào Bản Bó
(2)Hang Thẳm Tát Tòng: Một danh thắng nổi tiếng ở Bản Bó
(3)Pháo đài Dua Cá: ở Bản Cá - xã Chiềng An- Thị xã Sơn La
(4)Cánh đồng Sam Kha: Nơi nghĩa quân anh dũng hy sinh chống quân ngoại bang, thuộc Chiềng An - Thị xã Sơn La.
***
Thằng cai Bánh kêu lên
-“Chạy đi! Chúng mày ơi!”
Cơn giông từ đâu dồn tới
Phủ đặc dày núi Hài
Giăng tối trời núi Cá
Dòng Nậm La cuộn sóng
Mặt đất ầm ầm chuyển rung
Chớp xanh rạch ngang trời
Bọn giặc chạy như ma đuổi
Hồn lạc vào chốn rừng thiêng
Đất xé thành mồ đen
Những cành cây hóa những cánh tay
Chặn ngang đường chúng nó
Chúng ngã nhào!
Mặt cày loang vũng máu
Hồn vật vờ bay lên cờ ma
Vía lạc vào lọng mả
Lưới trời bủa vây
Đồn tây đồi Khâu Cả
Bừng bừng lửa cháy
Thiên la địa võng đất này./.
Sơn La, ngày 26 tháng 6 năm 2003
DƯƠNG TAM KHA
Hoan nghênh tác phẩm của tác giả Dương Tam Kha- Trường ca Anh hùng Lò Văn Giá.
Tác phẩm trường ca Anh hùng Lò Văn Giá của tác giả Dương Tam Kha là một công trình rất công phu có giá trị sử thi rất đáng khen:
1. Trường ca đã vẽ nên bức tranh núi rừng hùng vĩ của Sơn La, nơi rất giàu tiềm năng tài nguyên. Nơi có nhiều dân tộc đoàn kết, có cuộc sống tươi đẹp.
2. Đế quốc Pháp xâm lược. Bọn thống trị Pháp và tay sai Phìa, Tạo đã bóc lột và đàn áp vô cùng tàn tác làm cho dân chúng đau khổ, đói khát và bị nhục nhã. Trong khi đời sống bọn thống trị sung sướng, thừa thãi, ăn chơi sa đọa, trên sự cung cấp và hầu hạ của nhân dân.
3. Pháp xây nhà tù, đem các tù chính trị, phần lớn là các Đồng chí Cộng sản giam ở đây, với chế độ ăn uống cực khổ và lao động khổ sai, để cho chết dần, chết mòn. Nhưng những người tù Cộng sản kiên cường đã biến nhà tù thành trường học và đã được dân chúng giúp đỡ, lại tuyên truyền dân chúng, nhất là thanh niên, tổ chức ra nhóm "người Thái yêu nước" làm cơ sở lan rộng ra nhiều nơi. Sau này đã làm nên lịch sử "Cách mạng tháng 8" ở Sơn La.
4. Chính nhóm"Người Thái yêu nước" này đã cử anh Lò Văn Giá đưa đường cho 4 cán bộ Cộng sản vượt ngục Sơn La thành công. Bọn thống trị hoang mang vô cùng sau cuộc vượt ngục đó.
5. Bản trường ca "Anh hùng Lò Văn Giá" không chỉ ca ngợi người anh hùng đã hy sinh vì nước, mà bản Trường ca còn:
· Ca ngợi đất nước tươi đẹp, người dân đều có lòng yêu nước, đoàn kết, giúp nhau.
· Là bản án kết tội bọn thống trị tàn ác.
6. Xin chân thành cảm ơn tác giả. Và mong rằng tác phẩm này sẽ được phổ biến trong các trường học.
Nguyễn Văn Trân
Là một trong 4 người vượt ngục 3/8/1943
Hà Nội, 12/09/2003
Đọc tác phẩm
Trường ca: Anh hùng Lò Văn Giá(1)
Mấy chục năm trở lại đây, những tác phẩm trường ca hầu như vắng bóng trong đời sống văn học. Và nếu là trường ca viết về một người anh hùng hoặc về một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn thì càng hiếm người viết động tới và người dọc thì lại càng dửng dưng. Có thể kể ra nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau nhưng không thể không thừa nhận một điều: Cảm hứng về người anh hùng đang nhạt đi trong lòng người viết và cả ở phần đông người đọc sách. Tôi đọc Trường ca của tác giả Dương Tam Kha trong bối cảnh đó. Vì tò mò. Cũng còn vì anh là đồng nghiệp dạy Văn cũ của tôi. Tình yêu đối với thơ ca đến gần như là mê đắm của anh thì tôi đã biết từ lâu. Anh đã có tới hàng trăm bài thơ tình. Nhưng sau hơn hai chục năm cách biệt, cầm trên tay cuốn sách dày dặn của một nhà xuất bản có uy tín, thì tôi sững sờ. Và tôi còn sững sờ đến kinh ngạc; bởi đằng sau cái tên sách mộc mạc có cái bìa không hấp dẫn là những dòng thơ viết về một anh hùng liệt sỹ người Thái trẻ tuổi trào ra như những dòng nham thạch nóng bỏng. Tôi đọc mà không tin nổi ở mắt mình... Tôi cũng đã có thời, giống như anh, lang thang trên con đường Lò Văn Giá của Thị xã từng được mệnh danh là thị - xã - nhà - sàn, hay thẩn thơ trong Bản Cọ, nơi anh Giá đã sinh ra và lớn lên, nhớ đến những người tù số vuông năm xưa lúc đi cõng gạo từ Tạ Bú về nhà tù, dừng chân ngắm hoàng hôn và những cô gái Thái bên suối...Nhưng từ ấn tượng và cảm xúc tới những hình tượng nghệ thuật được chạm khắc và nung chảy lại là một khoảng cách không thể đo được bằng thước đo thông thường.
Trước khi viết "Trường ca Anh hùng Lò Văn Giá", thầy giáo dạy văn quê hương Thanh Hóa đã sống mê mải với thiên nhiên Tây Bắc, để hồn mình chìm ngập trong những hình tượng ví von duyên dáng nhiều sắc màu của đồng bào Thái, đã khá thông thạo lịch sử chín châu Thái cùng những truyền thuyết, dã sử được kể lại trong những bản tình ca và những sách sử Thái. Anh viết về một xứ sở - quê hương của người anh hùng như đó chính là quê hương thân thiết của mình:
Đất này
Đất của hoa ban
Hoa ban nở
Con ong rừng lạc lối
Con ong rừng
Rung cánh hoa rơi
Để phấn hương thơm
Rối lòng lứa đôi hò hẹn
Tiếng khèn vuốt mềm làn gió lan xa
Chiều nắng đẹp đỏ nghiêng triền dốc
Xanh biếc ánh trăng
Một suối tóc mây
Cô gái Thái
Giấu ánh nhìn đỉnh núi
Chiếc piêu hồng
Che nghiêng ngực tròn trái bưởi...
Nếu không vì giới hạn của bài viết, tôi sẽ trích dẫn ra hàng chục câu thơ đầy hình ảnh rung cảm như thế. Cần khẳng định ngay một điều: "Trường ca anh hùng Lò Văn Giá" trước hết là một bài thơ dài đắm say về đất nước và con người Tây Bắc trùng điệp, một "bản giao hưởng" từ ngữ về tình yêu và khát vọng. Nhưng với tư cách là một trường ca, tác giả đã dày công xây dựng những hoàn cảnh lịch sử - xã hội đầy kịch tính, những chân dung sắc nét về những người tù Cộng sản đeo số vuông, về đồng bào bị áp bức, về kẻ thù của dân tộc - từ đó lý giải tính cách, tâm hồn và hành động xả thân vì nghĩa lớn của người thanh niên yêu nước Lò Văn Giá. Cấu trúc của bản trường ca được xây dựng khá "kinh điển" từ những xúc cảm trữ tình sâu lắng và tinh tế về quê hương Tây Bắc, tác giả dần dần đưa người đọc vào câu chuyện của bản mường những thời"kẻ xấu thèm chiếm đất chiếm mường" rồi từ đó đi vào thân phận đặc biệt của Lò Văn Giá. Từ hoàn cảnh của người thanh niên Thái Bản Cọ nghèo năm xưa, tác phẩm đã dẫn dắt người đọc cảm thông với suy nghĩ, khát vọng của những người tù Cộng sản bị lưu đầy nơi rừng thiêng nước độc - chính những suy nghĩ và khát vọng đó đã cảm hoá sâu sắc Lò Văn Giá và những thanh niên Thái sau đó tham gia vào hội"Tay nóm chất mương"(2). Tác giả lý giải hành động yêu nước dũng cảm của Lò Văn Giá bằng "hồn vía" của đất đai, sông suối, cây cỏ, và bằng tình thương rất người "Anh thương lắm, thương nhiều mường ta..."
Tác giả cũng dành nhiều dòng thơ say đắm miêu tả mối tình của anh Giá với người vợ yêu; vì vậy, sự hy sinh quên mình cho Cách mạng của anh càng có điều kiện khía sâu vào lòng tiếc thương và kính phục của người đọc.
Từ trước tới nay, không hiếm thơ ca, văn xuôi viết về ngục Sơn La(3), nhưng đây là tác phẩm trường ca đầu tiên, mạnh dạn ca ngợi một thanh niên quần chúng Cách mạng tình nguyện bất chấp mọi hiểm nguy dẫn đường cho tù Cộng sản vượt ngục, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa.
Bằng công phu nghiên cứu sử liệu và tìm hiểu thực tế đời sống, với khả năng nhập thân khá sâu sắc, tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và hào hứng những chặng đường dẫn tù vượt rừng đầy hiểm nguy, cả giờ phút chia ly "tuôn trào nước mắt" giữa người thanh niên yêu nước và những người tù Cộng sản rồi sau đó là cuộc gặp gỡ lần cuối đầy yêu thương giữa hai vợ chồng Giá - Liên, và cuối cùng là chuyện Giá rơi vào tay giặc...Hiệu quả thẩm mỹ của tác phẩm đã đạt được khi tác giả đã không chỉ cung cấp thêm cho người đọc những hiểu biết chính xác về lịch sử, mà chủ yếu đã giúp người đọc sống lại với một trong những sự kiện bi tráng và xúc động nhất của lịch sử cách mạng Sơn La thời kỳ tiền khởi nghĩa, đã lay động tâm hồn người đọcbằng tình thương mến và lòng ngưỡng mộ sâu xa đối với người anh hùng miền núi 24 tuổi đời.
Tôi hiểu vì sao mà nhà cách mạng lão thành Nguyễn Văn Trân - một trong bốn người tù Cộng sản vượt ngục vào tháng 8 năm 1943 ấy đã "hoan nghênh tác phẩm" và viết trân trọng ở cuối cuốn sách"Tác phẩm trường ca Anh hùng Lò Văn Giá của tác giả Dương Tam Kha là một công trình rất công phu có giá trị sử thi rất đáng khen...Và mong rằng tác phẩm này sẽ được phổ biến trong các trường học."
Và nhà văn Nguyễn Phan Hách trong lời giới thiệu tác phẩm đã đánh giá một cách công bằng "Tâm hồn anh vọng tiếng gió rừng thác reo và những bản tình ca của những cô gái Thái xinh đẹp. Không có tình yêu đắm đuối với miền đất này, không thể có được những cảm xúc thơ như thế.Cái quý của Dương Tam Kha trong Trường ca “Anh hùng Lò Văn Giá” chính là ở điểm này. Mặt khác tình cảm thành kính, nhớ ơn người anh hùng đã hi sinh vì cách mạng là một điều đáng nêu cao cho thế hệ trẻ noi theo."
Tôi nghĩ, giá như anh kiệm lời hơn, cô đúc hơn trong hình tượng và từ ngữ, gía như ... Nhưng tác phẩm đã ra đời, những điều đáng tiếc chẳng có ý nghĩa gì nhiều so với cuộc sống tự thân của nó trong lòng bạn đọc. Tôi, cũng như nhiều người khác, hy vọng cuốn sách này sẽ có mặt trong thư viện của nhiều trường học trên toàn quốc.
Nguyễn Yên Thế
1. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2003
2. Hội người Thái cứu quốc
3. Như "Hoa đào đỏ" của Huy Bảo, "Người tù áo sạch" của Nguyễn Anh Tuấn,vv
Để lại một bình luận